✨A-nan-đà

A-nan-đà

nhỏ|phải|Tôn giả A-nan-đà, nổi danh là người "nghe và nhớ nhiều nhất", được xem là Nhị tổ [[Thiền tông Ấn Độ]] A-nan-đà (Ānanda, zh. 阿難陀, sa., pi. ānanda, bo. kun dga` bo ཀུན་དགའ་བོ་), thường viết ngắn là A-nan, dịch nghĩa là Khánh Hỉ (慶喜) hoặc Hoan Hỉ (歡喜), sinh năm 605 TCN và viên tịch năm 485 TCN ở tuổi 120, giữa sông Hằng, nơi ranh giới giữa hai nước Ma-kiệt-đà và Tì-xá-ly. Là anh em chú bác với Thích-ca Mâu-ni, năm 18 tuổi, A-nan-đà gia nhập Tăng đoàn của Phật Thích-ca Mâu-ni. Cùng gia nhập với ông có hai người anh em gồm A-na-luật, vị A-la-hán nổi tiếng với Thiên nhãn, và Đề-bà-đạt-đa, người sau này ly khai khỏi Tăng đoàn.

Trong số rất nhiều đệ tử của Thích-ca Mâu-ni, A-nan-đà nổi bật với trí nhớ phi thường, được xưng tụng là một trong Thập đại đệ tử. Phần lớn các bài kinh trong Kinh tạng (Sutta-Piṭaka) thời kỳ đầu đều do ông tụng lại từ ký ức trong kỳ Kết tập kinh điển lần thứ nhất. Trước khi nhập Niết-bàn, Thích-ca Mâu-ni căn dặn Tăng đoàn hãy lấy giáo pháp và giới luật làm nơi nương tựa, không chỉ định người kế nhiệm nào. Những sự kiện vào giai đoạn cuối cuộc đời Thích-ca Mâu-ni cho thấy sự quyến luyến sâu sắc của A-nan-đà với ông, và A-nan-đà vô cùng đau xót khi chứng kiến sự nhập diệt.

Không lâu sau khi Thích-ca Mâu-ni qua đời, A-nan-đà chứng đắc quả vị A-la-hán, điều kiện bắt buộc để tham dự Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất ngay trong đêm trước kỳ đại hội này diễn ra. Ông đóng vai trò trọng yếu trong đại hội này như "trí nhớ sống" của Thích-ca Mâu-ni, tụng lại nhiều bài pháp thoại và kiểm chứng sự chính xác của chúng. Cũng trong kỳ kết tập này, A-nan-đà bị Ma-ha-ca-diếp (Mahākāśyapa) và một số vị khác khiển trách vì đã thỉnh cầu Thích-ca Mâu-ni cho phép nữ giới xuất gia, dẫn đến sự hình thành Ni đoàn (giáo đoàn Tì-kheo-ni), và do chưa hoàn toàn hiểu rõ một số ý chỉ của Thích-ca Mâu-ni trong các thời khắc quan trọng.

Sau kỳ kết tập thứ nhất, A-nan-đà tiếp tục giảng dạy cho đến cuối đời, truyền thừa giáo pháp cho các đệ tử như Thương-na-hòa-tu (Śāṇavāsī) và Ma-thiền-đề (Maajjhantika), những người về sau giữ vai trò quan trọng trong các kỳ kết tập thứ hai và thứ ba. A-nan-đà được xem là Nhị tổ của Thiền tông Ấn Độ và là người đầu tiên phát minh ra "áo cà sa" – trang phục nghi lễ của tăng ni Phật giáo sau này.

A-nan-đà là một trong những nhân vật được kính trọng nhất trong Phật giáo, nổi danh về trí nhớ, lòng từ bi, và kiến thức uyên bác. Dù vậy, trong tương quan với Thích-ca Mâu-ni, ông đôi khi được nhìn nhận như một hình ảnh đối chiếu, thể hiện những lưu luyến thế tục trước khi đạt giác ngộ hoàn toàn. Trong các kinh truyền thống tiếng Phạn, A-nan-đà được xem như Tổ sư của Pháp, tiếp nhận giáo pháp từ Ma-ha-ca-diếp và truyền lại cho các đệ tử.

Từ thời Trung cổ cho tới nay, giới Tì-kheo-ni luôn bày tỏ lòng tôn kính sâu sắc đối với A-nan-đà vì công lao thiết lập Ni đoàn. Các nhân vật văn hóa như nhà soạn nhạc Richard Wagner và nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore cũng từng lấy cảm hứng từ cuộc đời và những câu chuyện về A-nan-đà trong tác phẩm của mình.

Tên gọi

Từ ānanda (आनंद) có nghĩa là “hỷ lạc, hoan hỷ” trong cả tiếng Pāli và tiếng Phạn​. Các bản chú giải Pāli giải thích rằng khi Tôn giả A-nan-đà ra đời, gia tộc của Ngài đã hết sức vui mừng. Tuy nhiên, các văn bản thuộc truyền thống Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ () kể rằng vì A-nan-đà được sinh ra đúng vào ngày Phật thành đạo, nên cả thành Ca-tỳ-la-vệ đều hân hoan do đó đặt tên ông có ý nghĩa là là “Hoan Hỷ”​, khi dịch sang Hán Tạng người ta còn dùng tên Khánh Hỉ (慶喜).

Ngoài phạm vi Phật giáo, trong triết học Vedānta của Ấn Độ giáo, "A-nan-đà" (Ānanda) mang ý nghĩa là sự an vui tuyệt đối, vượt trên mọi khái niệm nhị nguyên, là trạng thái chỉ có thể cảm nhận khi nhập Định (samādhi), và thường xuất hiện trong cụm danh từ "Sat-Cit-Ānanda" (Chân lý – Nhận thức tuyệt đối – An vui tuyệt đối).

Câu chuyện

Tiền kiếp

Theo kinh điển, trong một kiếp quá khứ, A-nan-đà đã phát nguyện được làm thị giả của một vị Phật​. Ngài phát nguyện này vào thời Phật Bảo Hoa () nhiều đại kiếp (, ) trước hiện tại. Khi đó, A-nan-đà gặp vị thị giả của Phật Padumuttara và ước nguyện sau này mình sẽ được như vị ấy trong tương lai. Sau khi tạo nhiều thiện nghiệp, Ngài bày tỏ lời thỉnh cầu lên Phật Bảo Hoa, và Phật đã thọ ký rằng mong ước của Ngài sẽ thành tựu trong một kiếp vị lai​. Trải qua vô số lần sinh tử luân hồi và tích lũy nhiều công đức, A-nan-đà được sinh ra trong thời Phật hiện tại là Phật Thích-ca mâu-ni.

Thiếu thời

A-nan-đà được sinh ra cùng thời với Phật (trước khi xuất gia là Thái tử Tất-đạt-đa), khoảng thế kỷ 5–4 TCN​. Truyền thống kể rằng A-nan-đà là em họ của Phật​ – cha của ông là em trai của vua Tịnh Phạn (Suddhodana, ) – cha của Thái tử Tất-đạt-đa. Theo truyền thống văn bản Pāli và Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (), cha A-nan-đà là vua A-di-đô-đàn-na (, ) hay Cam Lộ Phạn (甘露飯); nhưng bộ Đại sự () lại ghi là vua Túc-lô-đà-na () hay Bạch Phạn (白飯王) – cả hai vị này đều là em trai của vua Tịnh Phạn. Đại sự cũng đề cập rằng mẹ của A-nan-đà tên là Mi-rơ-gî (, nghĩa là “con linh dương nhỏ”; tên Pāli không được nêu rõ). Theo truyền thống Pāli, Tôn giả A-nan-đà có cùng ngày sinh với Thái tử Tất-đạt-đa​. Tuy nhiên, các văn bản thuộc Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ và về sau là Đại thừa lại nói rằng A-nan-đà được sinh ra đúng lúc Phật Thành đạo (khi Thái tử Tất-đạt-đa 35 tuổi), vì vậy tuổi của ông trẻ hơn Phật khá nhiều​. tại vườn xoài A-dật-di () thuộc lãnh thổ bộ tộc Ma-la (()​. Theo một văn bản truyền thống Đại Chúng Bộ (Mahāsaṅghika), vua Tịnh Phạn mong muốn Phật có nhiều đệ tử thuộc giai cấp Sát-đế-ly (, tức giai cấp chiến binh, quý tộc trị vì) hơn là đệ tử thuộc giai cấp Bà-la-môn (, giai cấp tu sĩ tế lễ)​. Mốc thời gian muộn hơn theo các văn bản Căn Bản Hữu Bộ và bài Trưởng Lão Kệ cho biết A-nan-đà thọ giới xuất muộn hơn nhiều – khoảng hai mươi lăm năm trước khi Phật qua đời, tức năm thứ hai mươi trong thời kỳ Phật truyền pháp. Ông đã làm thị giả cho Phật tổng cộng 25 năm, Khi Phật lâm bệnh, A-nan-đà cũng sinh bệnh do quá thương cảm; khi Phật già yếu, A-nan-đà vẫn tận tụy chăm sóc ngài.

A-nan-đà đôi khi thực sự có thể liều mình vì Phật. Có lần, khi Đề-bà-đạt-đa tìm cách mưu sát Phật bằng cách thả voi Na-la-kiệt () đang say xông tới Phật. A-nan-đà liền đứng chắn trước Phật để bảo vệ ngài. Phật bảo ông tránh ra, nhưng ông không tuân – dù bình thường ông luôn vâng lời Phật. Bằng thần thông (iddhi), Phật đã bốc A-nan-đà sang một bên và thuần phục con voi hung dữ bằng cách chạm vào nó và dùng lòng từ bi khuyên nhủ. A-nan-đà thường làm các vai trò người trung gian và thư ký: truyền đạt thông điệp từ Phật, báo cho Phật các tin tức, lời thỉnh nguyện hay nhu cầu của cư sĩ, và hướng dẫn cư sĩ muốn cúng dường đến Tăng đoàn. Một dịp nọ, Ma-ha Ba-xà-ba-đề (), dưỡng mẫu của Phật, thỉnh nguyện được dâng riêng một tấm y cho Phật. Bà nói rằng tuy bà đã nuôi dưỡng Phật khi còn bé, bà chưa bao giờ tự tay tặng ngài thứ gì; nay bà muốn làm điều đó. Ban đầu Phật nhất quyết bảo bà nên cúng dường tấm y ấy cho cả Tăng đoàn hơn là với cá nhân ngài. Tuy nhiên, A-nan-đà đã đứng ra hòa giải, đề nghị Phật nên nhận tấm y. Cuối cùng Phật đồng ý, nhưng ngài lưu ý A-nan-đà rằng những việc thiện như bố thí nên được làm vì chính việc thiện ấy, chứ không phải vì một người nào.

Các kinh văn chép rằng có đôi dịp Phật nhờ A-nan-đà thay ngài thuyết pháp, và ông thường được Phật khen ngợi về những lời giáo huấn của mình. A-nan-đà hay được giao những nhiệm vụ giảng dạy quan trọng, như thường xuyên giáo hóa Hoàng hậu Ma-lị-ca (), Hoàng hậu Sa-ma-bà-đề () và các vương tôn quý tộc khác. Một lần, A-nan-đà thuyết pháp cho các phi tần của Ưu Điền Vương (). Họ ấn tượng với A-nan-đà đến mức đã cúng dường ông năm trăm tấm y, và A-nan-đà đã nhận tất cả. Nghe chuyện, Ưu Điền Vương chỉ trích A-nan-đà tham lam; A-nan-đà giải thích rằng từng tấm y đều được tăng chúng sử dụng, tái sử dụng và tận dụng kỹ lưỡng, khiến nhà vua cảm phục và cúng dường thêm năm trăm tấm y nữa. A-nan-đà cũng đóng vai trò trong chuyến Phật thăm Tỳ-xá-ly. Trong câu chuyện này, Phật dạy bài kinh Châu Báu cho A-nan-đà, rồi A-nan-đà tụng bài kinh ấy ở Tỳ-xá-ly, giúp thành phố thoát khỏi dịch bệnh, hạn hán và ma quỷ. Một đoạn nổi tiếng khác, trong đó Phật dạy A-nan-đà về thiện hữu tri thức (). Trong đoạn này, A-nan-đà nói rằng tình bạn tâm linh là một nửa của đời sống phạm hạnh; Phật sửa lại rằng tình bạn ấy là toàn bộ đời sống phạm hạnh. Tóm lại, A-nan-đà đã làm trợ lý, trung gian và phát ngôn viên, giúp Phật đủ mọi cách trong quá trình truyền bá giáo pháp của Phật.

Chống lại cám dỗ

A-nan-đà được mô tả là một người có có dung mạo khôi ngô. Một ghi chép tiếng Pāli ghi rằng có một tỳ-kheo ni đem lòng yêu mến A-nan-đà, và bà này đã giả bệnh để A-nan-đà đến thăm. Khi nhận ra sai lầm của mình, cô đã sám hối với A-nan-đà.

Câu chuyện khác kể rằng một cô gái tên Ma-đăng-già (), trong tiếng Hán được viết là 摩登伽女, Módēngqiénǚ) phải lòng A-nan-đà, và đã thuyết phục mẹ mình là Mātaṅgī dùng hắc thuật để mê hoặc ông. Hắc thuật hiệu nghiệm, A-nan-đà bị dụ vào nhà cô, nhưng ông bừng tỉnh và cầu cứu Phật. Phật liền dạy Ma Ðăng Già quán tưởng những điều bất tịnh của thân thể, và cuối cùng Ma Ðăng Già đã xuất gia làm tỳ-kheo ni, từ bỏ sự luyến ái với A-nan-đà và sau đó đắc quả A-la-hán.

Trong một dị bản Đông Á của chuyện này trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật sai Văn-thù-sư-lợi đến giúp A-nan-đà, vị Bồ Tát dùng chú để hóa giải bùa. Phật sau đó dạy thêm cho A-nan-đà và những người nghe về Phật tính.

Thành lập Ni đoàn

thumb|Tượng đá vôi Trung Quốc thế kỷ 8 khắc họa A-nan-đà|alt=Tượng đá một nhà sư cầm một vật không xác định|upright

Đóng vai trò trung gian giữa Phật và cư sĩ, A-nan-đà đôi khi đã đề xuất với Phật những điều chỉnh về giới luật. Quan trọng nhất, các văn bản sơ kỳ ghi nhận việc phụ nữ được thu nhận vào Tăng đoàn ban đầu chính là nhờ A-nan-đà.

Mười lăm năm sau khi Phật thành đạo, dưỡng mẫu của Phật là hoàng hậu Ma-ha Ba-xà-ba-đề đến xin ngài cho phép bà được xuất gia làm tỳ-kheo ni đầu tiên. Ban đầu Phật từ chối. Năm năm sau, Ma-ha Ba-xà-ba-đề lại thỉnh cầu, lần này cùng một đoàn phụ nữ Thích-ca khác, kể cả vợ cũ của Phật là Da-du-đà-la (). Họ đã đi bộ 500 km, trông vừa dơ bẩn, mệt mỏi vừa phiền muộn, khiến A-nan-đà động lòng trắc ẩn. A-nan-đà liền hỏi Phật xác nhận rằng phụ nữ cũng có thể chứng ngộ, phải không. Phật thừa nhận đúng vậy, nhưng vẫn chưa cho những người phụ nữ Thích-ca kia xuất gia. A-nan-đà bèn thưa về việc Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã nuôi dưỡng Phật thời thơ ấu sau khi mẹ ruột Phật là hoàng hậu Maya mất. A-nan-đà cũng nhắc rằng các vị Phật quá khứ cũng từng cho phép phụ nữ xuất gia. Vào thời điểm đó, Tăng đoàn chỉ gồm các nam tu khất sĩ vân du, chưa có nhiều cơ sở tu viện. Việc cho phép phụ nữ nhập đời sống tu hành có thể dẫn đến chia rẽ và cám dỗ giữa hai giới. Tuy nhiên, phép Bát kính pháp () được đặt ra nhằm giải quyết các vấn đề đó và ngăn chặn giáo đoàn khỏi nguy cơ suy giảm sớm.

upright|thumb|Một ni cô Đài Loan đang lễ bái; các văn bản sơ kỳ ghi nhận việc phụ nữ được thu nhận vào tăng đoàn ban đầu là nhờ công của A-nan-đà.|alt=Ảnh một ni cô Đài Loan

Truyền thống kể về việc thành lập Ni đoàn có một số mâu thuẫn thời gian. Theo văn bản Pāli và Hóa Địa bộ, Ni đoàn được thành lập năm năm sau khi Phật thành đạo, nhưng theo hầu hết các văn bản truyền thống , A-nan-đà chỉ trở thành thị giả hai mươi năm sau khi Phật thành đạo.

Hơn nữa, Ma-ha Ba-xà-ba-đề là dưỡng mẫu của Phật, nên chắc chắn bà lớn tuổi hơn ngài nhiều. Tuy nhiên, sau khi Ni đoàn được thành lập, Ma-ha Ba-xà-ba-đề vẫn còn nhiều lần yết kiến Phật như ghi nhận trong các văn bản sơ kỳ Pāli và Hán tạng. Vì lý do này và các lý do khác, có thể suy luận rằng Ni đoàn thực ra được thành lập từ sớm trong thời kỳ Phật truyền pháp. Nếu vậy, vai trò của A-nan-đà trong việc thành lập Ni đoàn trở nên kém chắc chắn.

Phật nhập Niết-bàn

thumb|upright|Tượng khắc họa Phật an ủi A-nan-đà tại [[núi Linh Thứu, Vương Xá, Ấn Độ.|alt=Tượng Phật đặt tay lên đầu một tỳ-kheo đứng bên phải ngài, tỳ-kheo này mỉm cười]]

Mặc dù là tỳ-kheo gắn bó lâu dài và gần gũi bên Phật, kinh điển mô tả A-nan-đà vẫn chưa chứng quả A-la-hán khi Phật còn sống. Vì vậy, một đồng tu tên Udāyī () đã chế nhạo ông. Phật liền quở trách Udāyī, nói rằng A-nan-đà chắc chắn sẽ đắc quả A-la-hán trong kiếp này.

Kinh Đại Bát Niết-bàn ghi lại chuyến du hành kéo dài một năm cuối cùng của Thích-ca Mâu-ni cùng A-nan-đà, từ Vương Xá () đến thị trấn nhỏ Câu-thi-na (), trước khi Phật nhập Niết-bàn tại đó. Trước khi đến Câu-thi-na, Phật đã an cư mùa mưa (an cư kiết hạ) tại Veḷugāma (), rời khỏi vùng Tỳ-xá-ly đang chịu nạn đói. Tại đây, Phật khi ấy 80 tuổi và truyền ý muốn nói chuyện với Tăng đoàn lần nữa. Trước đó ở Tỳ-xá-ly, Phật lâm bệnh nặng, khiến một số đệ tử lo lắng. A-nan-đà hiểu rằng Phật muốn để lại những chỉ dẫn cuối cùng trước khi qua đời. Phật tuyên bố ngài đã giảng dạy đầy đủ mọi điều cần thiết, không giữ lại điều gì bí mật như một vị thầy với “nắm tay giấu kín”. Ông cũng nhấn mạnh với A-nan-đà rằng Tăng đoàn không nên quá lệ thuộc vào một lãnh đạo, kể cả bản thân của Phật. Sau đó, Phật đưa ra lời tuyên bố nổi tiếng rằng hãy lấy giáo pháp của ngài làm chỗ nương tựa, tự mình làm nơi nương tựa cho chính mình, không nương tựa bất kỳ ai khác, kể cả sau khi Phật qua đời. André Bareau cho rằng đây là một trong những phần cổ xưa nhất của kinh, sau này được tìm thấy với chút biến thể trong năm truyền thống văn bản sơ kỳ khác nhau:

Cùng kinh này có thuật rằng trong nhiều dịp, Phật ngầm gợi ý rằng ngài có thể kéo dài thọ mạng đến trọn một đại kiếp nhờ thần thông, nhưng đó là một năng lực ông phải được mới thi triển. Do tâm trí lơ đễnh, A-nan-đà đã không hiểu gợi ý đó. Về sau, A-nan-đà có thỉnh cầu Phật trụ thế lâu hơn, nhưng Phật đáp đã quá trễ, vì ngài sắp viên tịch. Thiên Ma Ba Tuần, hiện thân của ác nghiệp, đã đến thăm Phật và ông quyết định sẽ nhập Niết-bàn sau ba tháng. Nghe vậy, A-nan-đà bật khóc. Nhưng Phật an ủi, chỉ ra rằng A-nan-đà đã là một thị giả tuyệt vời, luôn nhạy bén với nhu cầu của từng người. Khi trở lại, A-nan-đà hỏi Phật nên xử lý nhục thân ngài ra sao sau khi ngài qua đời; Phật đáp hãy trà tỳ (hỏa táng) và đưa ra chỉ dẫn chi tiết cách thực hiện. Phật cấm A-nan-đà không tham gia trực tiếp, mà chỉ hướng dẫn người Malla làm lễ, do đó nhiều học giả hiểu rằng Phật cấm chư tăng tham dự tang lễ hay thờ phụng tháp xá lợi. Tuy nhiên, học giả Gregory Schopen lưu ý rằng lệnh cấm này chỉ áp dụng cho A-nan-đà, và chỉ đối với tang lễ của Phật mà thôi. Cũng có nghiên cứu cho rằng các chỉ dẫn về tang lễ này xuất hiện khá muộn – cả về nội dung lẫn việc được thêm vào văn bản – và không có trong các bản kinh song song, trừ Kinh Đại Bát Niết-bàn.

A-nan-đà tiếp đó hỏi Phật rằng các Phật tử nên tôn kính Phật sau khi ngài qua đời thế nào. Phật trả lời bằng cách liệt kê bốn địa điểm quan trọng trong cuộc đời ngài mà mọi người có thể đến chiêm bái, về sau trở thành bốn Thánh địa chính của Phật giáo. Trước khi nhập Niết-bàn, A-nan-đà đề nghị Phật chuyển đến một thành phố “ý nghĩa” hơn, nhưng Phật chỉ ra thị trấn này từng là một kinh đô hùng mạnh. A-nan-đà hỏi ai sẽ là vị Thầy tiếp theo sau khi Phật qua đời, Phật đáp rằng giáo pháp và giới luật của ngài sẽ là bậc Đạo sư thay thế. Điều này có nghĩa các quyết định sẽ được đưa ra qua đồng thuận trong Tăng đoàn, và hơn nữa, giờ đây tăng chúng và tín đồ phải lấy kinh điển Phật giáo làm kim chỉ nam, vì Phật sắp viên tịch.

Phật đưa ra một số chỉ dẫn trước khi viên tịch, trong đó có việc chỉ thị rằng cựu xa phu của ngài là Sa-nặc () phải bị chúng tăng khai trừ để hạ bớt niềm kiêu hãnh của ông ta. Trong giây phút cuối, Phật hỏi có ai có thắc mắc gì cần hỏi ngài không – cơ hội cuối cùng để giải trừ nghi hoặc. Không ai lên tiếng, A-nan-đà hoan hỷ nói rằng tất cả các đệ tử hiện diện đều đã đạt đến mức không còn hoài nghi gì giáo pháp của Phật. Nhưng Phật chỉ ra rằng A-nan-đà nói vậy là do niềm tin chứ không phải do tuệ giác thiền định của ông – một lời quở trách cuối cùng. Phật nói thêm rằng trong năm trăm tỳ-kheo vây quanh ngài, ngay cả người “cuối cùng” hay “chậm nhất” () cũng đã đạt tầng thánh Dự Lưu (). Điều khích lệ này, Phật ngụ ý nhắc và khen A-nan-đà.

Trong khi Phật nhập Niết-bàn, tôn giả A-na-luật đã dùng thần lực thiền định để thấy được các giai đoạn Phật trải qua trước khi diệt độ. Nhưng A-nan-đà không làm được điều đó, cho thấy tu chứng của ông còn kém hơn. Sau khi Phật qua đời, A-nan-đà tụng đọc mấy bài kệ bày tỏ cảm giác than trách sâu sắc (Pāli: saṃvega), xúc động mạnh trước sự kiện này:

Không lâu sau đại hội kết tập, A-nan-đà đích thân truyền đạt chỉ thị của Phật cho Sa-nặc. Sa-nặc lo sợ và bừng tỉnh, nhân đó đó tu tập và đắc quả A-la-hán, và Tăng đoàn đã bãi bỏ hình phạt đối với Sa-nặc. A-nan-đà đi đến đến Xá-vệ (Sanskrit: Śrāvastī), nơi dân chúng đang chìm trong đau buồn; ông đã an ủi họ bằng giáo lý vô thường. Sau đó, A-nan-đà trở về tịnh thất của Phật và thực hiện các công việc thường ngày trước đây ông vẫn làm khi Phật còn tại thế, như chuẩn bị nước và quét dọn tịnh thất. Xong, ông đảnh lễ và trò chuyện với tịnh thất như thể Phật vẫn còn ở đó. Các bản chú giải Pāli nói rằng A-nan-đà làm vậy do lòng tôn kính, nhưng cũng vì ông “chưa dứt sạch các lậu hoặc”.

Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất

[[File:Shanti Stupa, Rajgir.jpg|thumb|upright=1|Theo kinh điển Phật giáo, Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất được tổ chức tại Thành Vương Xá (Rājagaha).

Có một quy định rằng chỉ những đệ tử đã giác ngộ hoàn toàn (arahants – A-la-hán) mới được phép tham dự đại hội, việc này nhằm tránh để các phiền não làm lu mờ ký ức của các vị đệ tử. Tuy nhiên, A-nan-đà vẫn chưa đắc quả A-la-hán dù là đệ tử thân cận hàng đầu của Phật, khác với các thành viên còn lại của đại hội gồm 499 vị A-la-hán. Vì vậy, Ma-ha Ca-diếp đã cấm A-nan-đà tham dự. Mặc dù ông biết rằng sự có mặt của A-nan-đà tại đại hội là cần thiết, ông không muốn thiên vị bằng cách tạo ra ngoại lệ cho quy định này. Theo truyền thống Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, Ma-ha Ca-diếp ban đầu cho phép A-nan-đà tham dự như một người phục vụ giúp việc trong đại hội, nhưng sau đó buộc phải yêu cầu ông rời khỏi khi tôn giả A-na-luật nhận thấy A-nan-đà chưa chứng ngộ.

Việc cấm này khiến cho A-nan-đà cảm thấy xấu hổ, nhưng cũn chính điều đó đã thúc đẩy ông chuyên tâm nỗ lực tu tập để đạt giác ngộ trước khi đại hội bắt đầu. Các bản văn Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ bổ sung rằng ông cảm thấy có động lực khi nhớ lại lời Phật dạy trước khi mất rằng mỗi người phải tự mình nương tựa chính mình, và khi ông được A-na-luật cùng Vajjiputta (thị giả của ông) an ủi và khuyên nhủ. Đêm trước ngày khai mạc, ông đã tập trung tu thiền hết sức để đạt được giác ngộ. Một lúc sau, A-nan-đà tạm nghỉ và quyết định nằm xuống nghỉ ngơi. Ngay khi ông giữa trạng thái ngồi và nằm, ông chứng ngộ A-la-hán. Do vậy, A-nan-đà được biết đến là vị đệ tử đạt giác ngộ “không trong một tư thế tứ oai nghi” truyền thống nào (đi, đứng, ngồi hoặc nằm). Sáng hôm sau, để chứng tỏ mình đã giác ngộ, A-nan-đà đã thị hiện một thần thông: ông chui xuống lòng đất và xuất hiện ngay trên chỗ ngồi của mình tại đại hội (hoặc, theo một số nguồn khác, ông bay trên không trung mà đến). Các học giả như nhà Phật học André Bareau và nhà nghiên cứu tôn giáo Ellison Banks Findly đều hoài nghi nhiều chi tiết trong tường thuật này, bao gồm cả con số người tham dự đại hội cũng như câu chuyện A-nan-đà giác ngộ ngay trước thềm đại hội. Dù sao đi nữa, ngày nay câu chuyện về nỗ lực của A-nan-đà vào đêm trước đại hội vẫn được lưu truyền trong giới Phật tử như một lời khuyên trong thực hành thiền định: không được bỏ cuộc, nhưng cũng không được quá chấp vào việc hành trì một cách cứng nhắc.

thumb|[[Tinh Xá Kỳ Viên tại thành Vương Xá, Ấn Độ. Bích họa miêu tả Đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất, trong đó A-nan-đà được cho là đã xướng câu: evaṃ me sutaṃ (“Như vầy tôi nghe”) mở đầu cho mỗi bài pháp của Phật mà ông tụng lại từ ký ức.]]

Tụng đọc kinh

Đại hội lần thứ nhất bắt đầu khi A-nan-đà được thỉnh tụng lại các bài kinh và xác định bài nào là xác thực, bài nào không xác thực. Ma-ha Ca-diếp đã yêu cầu, với mỗi bài kinh mà A-nan-đà liệt kê, ông phải cho biết bài kinh đó được giảng ở đâu, khi nào và cho những ai.

Các cáo buộc

Cũng trong đại hội đó, A-nan-đà đã bị các thành viên của Tăng đoàn buộc tội vì đã tạo điều kiện cho nữ giới xuất gia tu hành. Bên cạnh đó, ông còn bị kết tội vì đã quên không thỉnh Phật chỉ rõ những giới luật nào có thể được bỏ qua; vì đã giẫm lên y của Phật; vì đã cho phép phụ nữ tôn kính nhục thân của Phật sau khi Phật nhập diệt, trong khi thi hài chưa được mặc y phục chỉnh tề, khiến thi thể bị vấy bẩn bởi nước mắt của họ; và vì đã không thỉnh cầu Phật tiếp tục trụ thế. Dù A-nan-đà không xem những điều này là lỗi, nhưng ông vẫn chấp thuận làm lễ sám hối chính thức “... vì tin vào ý kiến của chư tôn trưởng lão” – A-nan-đà muốn ngăn ngừa sự bất hòa trong Tăng đoàn. Về việc cho phép phụ nữ xuất gia, A-nan-đà giải thích rằng ông đã làm điều này với rất nhiều nỗ lực, vì Ma-ha Ba-xà-ba-đề (dì ruột và dưỡng mẫu của Phật) đã chăm lo cho Phật trong thời gian dài. Về việc không thỉnh Phật tiếp tục trụ thế, nhiều truyền thống kinh điển ghi rằng A-nan-đà trả lời ông đã bị Ma vương làm cho phân tâm, mặc dù một bản văn Hán cổ lại chép rằng A-nan-đà đáp ông không thỉnh Phật kéo dài thọ mạng vì e rằng điều đó sẽ cản trở sứ mệnh của vị Phật tương lai Di-lặc. Qua phân tích, Bareau, Przyluski và Horner cho rằng những lỗi mà A-nan-đà bị buộc tội được thêm vào về sau, nhưng Findly không đồng ý, vì theo bà thì những chi tiết đó trong các văn bản giới luật phù hợp với kinh Đại Bát Niết-bàn và với tính cách của A-nan-đà như được mô tả chung trong kinh điển.

Tính lịch sử của Đại hội lần thứ nhất

Theo truyền thống, Đại hội lần thứ nhất kéo dài suốt bảy tháng. Tuy nhiên, các học giả hoài nghi liệu toàn bộ kinh điển có thực sự được tụng đọc trong Đại hội lần thứ nhất hay không, bởi các văn bản sơ kỳ có ghi lại những tường thuật khác nhau về các chủ đề quan trọng như pháp môn thiền định. Dù vậy, cũng có thể những phiên bản sơ khai của những gì nay được biết đến là Luật tạngKinh tạng đã được tụng đọc.

Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 trở đi, nhiều học giả cho rằng tính lịch sử của Đại hội lần thứ nhất là khó có thể xảy ra. Một số học giả, chẳng hạn như các nhà Đông phương học Louis de La Vallée-Poussin và D. P. Minayeff, tin rằng hẳn đã có những cuộc hội họp sau khi Phật qua đời, nhưng họ chỉ xem các nhân vật chính và một số sự kiện trước hoặc sau Đại hội lần thứ nhất là mang tính lịch sử. Các học giả khác, như Bareau và nhà Ấn Độ học Hermann Oldenberg, cho rằng rất có thể câu chuyện về Đại hội lần thứ nhất chỉ được ghi chép lại sau Đại hội lần thứ hai, và dựa trên câu chuyện về Đại hội lần thứ hai, vì không có vấn đề lớn nào cần giải quyết sau khi Phật nhập diệt, cũng như không có nhu cầu thực sự nào để tổ chức Đại hội lần thứ nhất. Phần lớn nội dung trong các tường thuật, và càng rõ ràng hơn các bản kể chi tiết về sau, đều tập trung vào vai trò của A-nan-đà như một người trung gian thanh tịnh, người truyền trao lại giáo pháp chính thống của Phật. Ở chiều ngược lại, nhà khảo cổ Louis Finot, nhà Ấn Độ học E. E. Obermiller và ở mức độ nào đó nhà Ấn Độ học Nalinaksha Dutt cho rằng câu chuyện về Đại hội lần thứ nhất là xác thực, bởi có sự tương ứng giữa kinh văn Pāli và truyền thống A-hàm. Nhà nghiên cứu Richard Gombrich, dựa trên lập luận của Tỳ-kheo Sujato và Tỳ-kheo Brahmali, phát biểu rằng “rất hợp lý khi tin tưởng… rằng phần lớn kinh tạng Pāli thực sự lưu giữ được lời dạy của Đức Phật, được truyền lại cho chúng ta qua đệ tử của Ngài là A-nan-đà và Đại hội lần thứ nhất”.

Vai trò và tính cách

A-nan-đà được công nhận là một trong mười đệ tử quan trọng nhất của Phật. Trong các danh sách đệ tử được nêu trong Tăng Chi Bộ KinhTương Ưng Bộ Kinh, mỗi vị đệ tử được tuyên bố là xuất sắc nhất về một phương diện nào đó. A-nan-đà được nhắc đến thường xuyên hơn bất cứ đệ tử nào khác: ông được nêu danh là vị đệ tử bậc nhất về hành vi phạm hạnh, về sự chu đáo với người khác, về năng lực ghi nhớ, về sự uyên bác và về tính kiên định. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn, Phật thậm chí đã giảng một bài pháp tán thán A-nan-đà ngay trước khi Phật qua đời: cụ thể trong – bài pháp nói về một người hiền lành, vị tha, được mọi người quý mến và luôn nghĩ cho người khác.

Trong kinh điển, ông được khắc họa là người có lòng từ bi trong mối quan hệ với hàng cư sĩ, và lòng từ bi đó ông học được từ chính Phật. Phật truyền dạy rằng cả chư tăng lẫn cư sĩ đều hoan hỷ khi thấy A-nan-đà, và họ cũng vui mừng khi được nghe ông tụng đọc và thuyết giảng giáo pháp của Phật. Thêm vào đó, A-nan-đà còn nổi tiếng với khả năng tổ chức của mình, ông hỗ trợ Phật như một thư ký trợ lý trong các công việc hành chính. Ở nhiều phương diện, A-nan-đà không chỉ phục vụ các nhu cầu cá nhân của Phật, mà còn đáp ứng cả những nhu cầu của Tăng đoàn khi còn non trẻ và đang phát triển.

Hơn nữa, nhờ khả năng ghi nhớ được rất nhiều lời dạy của Phật, ông được tôn xưng là bậc nhất về “nghe nhiều” hay đa văn đệ nhất (, , ). A-nan-đà nổi tiếng với trí nhớ siêu hạng, Ma-thiền-đề sau đó đã hoàn thành sứ mệnh như Phật đã tiên đoán. Đệ tử của Ma-thiền-đề là Upagupta được ghi lại là thầy của A-dục vương (thế kỷ 3 TCN). Cùng với bốn hay năm đệ tử khác của A-nan-đà, Thương-na-hòa-tu và Ma-thiền-đề đã tạo thành phần đa số của công đồng Phật giáo lần thứ hai, với Ma-thiền-đề là đệ tử cuối cùng của A-nan-đà. Các nguồn Pāli hậu kinh thêm rằng Thương-na-hòa-tu cũng đóng vai trò chủ chốt trong Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba. Dù không nhiều điều có tính lịch sử được khẳng định vững chắc, Cousins cho rằng rất có thể ít nhất một nhân vật chủ chốt trong Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai là đệ tử của A-nan-đà, vì hầu hết văn bản truyền thống đều nhắc đến sự liên hệ với A-nan-đà. Người ta nói rằng A Xà Thế đã xây một bảo tháp stūpa ngay trên xá lợi của A-nan-đà, ở bờ sông Rohīni, hoặc theo một số nguồn là ở bờ sông Hằng; phía Lichchavi (tại Vệ-xá-lợi) cũng đã xây một bảo tháp ở bên bờ sông của họ. Nhà hành hương người Trung Quốc Huyền Trang (602–664 SCN) sau này đã viếng thăm các bảo tháp ở cả hai bên bờ sông Rohīni. Pháp Hiển cũng ghi lại đã thăm các bảo tháp thờ A-nan-đà bên bờ sông Rohīni và cả ở Ma-thâu-la.

Theo phiên bản Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ của Saṃyukta Āgama, A-dục vương đã đến thăm và cúng dường hoành tráng nhất trong đời ông cho bảo tháp A-nan-đà:

Ông giải thích với các cận thần rằng mình làm như vậy vì “[t]hân của Như Lai chính là thân của các pháp, tịnh diệu tự tánh. Ngài A‑nan‑đà có thể thu giữ trọn vẹn thân pháp ấy; do đó sự cúng dường [đối với ngài] vượt trên tất cả mọi cúng dường khác”pháp thân ở đây chỉ toàn bộ giáo pháp của Phật.

Trong các Kinh điển Phật giáo sơ kỳ, A‑nan‑đà đã chứng Niết‑bàn và không còn tái sinh nữa. Tuy nhiên, khác với các bản kinh sớm, Kinh Pháp Hoa Đại thừa dạy rằng A‑nan‑đà sẽ thành Phật trong tương lai. Ông sẽ đạt được mục tiêu này chậm hơn Phật Thích‑ca Mâu‑ni, vì A‑nan‑đà nguyện thành Phật nhờ “học hành tinh tấn”. Chính vì hành trình dài lâu và nỗ lực lớn lao ấy, quả vị giác ngộ của A-nan-đà sẽ thù thắng và rực rỡ phi thường.

Di sản

thumb|upright=1.4|alt=Ngôi đền với tượng Phật, hai bên là tượng A-nan-đà và Ma-ha Ca-diếp|Trong nghệ thuật tượng hình Đại thừa, A-nan-đà thường được thể hiện đứng hầu bên phải Đức Phật, còn Ma-ha Ca-diếp ở bên trái. A-nan-đà được mô tả là một người thuyết pháp lưu loát, Ngay cả trong những bài kinh được gán cho chính Phật thuyết, đôi khi A-nan-đà cũng được miêu tả là người đặt tên cho một bài pháp cụ thể, hoặc gợi ý cho Phật một hình ảnh ẩn dụ để Ngài sử dụng trong lời dạy.

Trong Phật giáo Đông Á, A-nan-đà được xem là một trong Thập đại đệ tử của Phật. Trong nhiều kinh văn Sanskrit Ấn Độ và Đông Á, A-nan-đà được coi là vị tổ thứ hai trong dòng truyền thừa giáo pháp của Phật, với Ma-ha Ca-diếp là vị thứ nhất và Majjhantika hoặc Saṇavāsī là vị thứ ba. Có một tường thuật trong kinh điển của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ kể rằng trước khi Ma-ha Ca-diếp qua đời, ông đã trao lại giáo pháp của Phật cho A-nan-đà như một sự truyền thụ quyền uy chính thức, và dặn A-nan-đà truyền lại giáo pháp đó cho đệ tử mình là Thương-na-hòa-tu. Về sau, ngay trước khi A-nan-đà viên tịch, ông đã làm đúng theo lời Ma-ha Ca-diếp căn dặn. Tuy nhiên, hai học giả Phật học Akira Hirakawa và Bibhuti Baruah tỏ ý hoài nghi về mối quan hệ thầy trò giữa Ma-ha Ca-diếp và A-nan-đà, cho rằng giữa hai người có sự bất hòa, như được thể hiện trong các kinh văn sơ kỳ. Dù sao đi nữa, rõ ràng các kinh văn muốn nói đến một mối quan hệ truyền thừa giáo pháp, chứ không phải là quan hệ thầy tế độ trong dòng truyền thừa truyền giới: không có nguồn nào nói rằng Ma-ha Ca-diếp là thầy tế độ (upajjhāya) của A-nan-đà. Trong nghệ thuật tượng hình Đại thừa, A-nan-đà thường được thể hiện đứng hầu bên phải Phật, cùng với Ma-ha Ca-diếp ở bên trái. Tuy nhiên, trong nghệ thuật tượng hình Phật giáo Nguyên thủy Theravāda, A-nan-đà thường không được mô tả theo cách này, và mô-típ truyền thừa giáo pháp qua danh sách các tổ sư hoàn toàn không được tìm thấy trong các nguồn Pāli.

thumb|upright|Bức tranh Trung Quốc thế kỷ 8–9 miêu tả hai nhà sư mặc cà sa được ghép từ nhiều mảnh vải. Theo truyền thống Pāli, A-nan-đà đã thiết kế mẫu y của chư Tăng, dựa trên hình dáng những thửa ruộng lúa.|alt=Tranh vẽ hai nhà sư: một người mang nét Trung Á, đưa ngón trỏ áp vào ngón cái; người kia mang nét Đông Á, chắp hai tay trước ngực.

Bởi A-nan-đà có công lớn trong việc thành lập cộng đồng Tỳ-kheo ni, ông đã được chư ni tôn kính suốt chiều dài lịch sử Phật giáo. Những dấu vết sớm nhất về điều này được tìm thấy trong ghi chép của các nhà sư hành hương người Trung Quốc là Pháp Hiển và Huyền Trang, khi hai ngài tường thuật rằng các vị Tỳ-kheo ni đã dâng cúng một ngôi bảo tháp để tôn vinh A-nan-đà trong các dịp lễ hội và ngày Bố-tát. Tương tự, vào thế kỷ 5–6 ở Trung Quốc và thế kỷ 10 ở Nhật Bản, người ta đã soạn thảo các văn bản khuyên nữ giới tuân giữ Bát quan trai giới để tưởng nhớ và tri ân A-nan-đà. Ở Nhật Bản, việc này được thực hiện thông qua một nghi thức sám hối gọi là keka (悔過). Đến thế kỷ 13, tại Nhật Bản đã hình thành sự sùng kính gần như cuồng nhiệt đối với A-nan-đà ở một số ni viện, trong đó tượng thờ và tháp A-nan-đà được dựng lên và các nghi lễ được cử hành để tôn vinh ông. Hiện nay, giới học giả có những ý kiến trái ngược về việc sự sùng kính A-nan-đà trong hàng ngũ Tỳ-kheo ni là biểu hiện cho sự phụ thuộc của họ vào truyền thống Tăng-già nam, hay ngược lại, thể hiện tính chính danh và sự độc lập của họ.

Các văn bản Luật tạng Pāli ghi rằng mẫu thiết kế y phục cà sa của chư Tăng là do A-nan-đà nghĩ ra. Khi Phật giáo phát triển thịnh vượng, nhiều cư sĩ bắt đầu phát tâm cúng dường các loại vải đắt tiền để may y, điều này khiến các tỳ-kheo có nguy cơ bị trộm cắp nhắm đến. Để giảm giá trị vật chất của vải cúng dường, các tỳ-kheo đã xé nhỏ tấm vải trước khi khâu thành y. Phật yêu cầu A-nan-đà nghĩ ra một mẫu y cho chư Tăng được ghép từ những mảnh vải nhỏ. A-nan-đà đã thiết kế một mẫu y tiêu chuẩn, dựa theo hình ảnh những thửa ruộng lúa ở Ma-kiệt-đà, được ngăn ô bởi các bờ đất. Bởi lấy hình ảnh từ các đám ruộng, y này còn có tên khác là phước điền y hay áo ruộng phước.

Một truyền thống khác gắn liền với A-nan-đà là nghi thức tụng kinh hộ trì paritta. Phật tử Phật giáo Nguyên thủy Theravāda lý giải rằng tập tục rảy nước trong khi tụng kinh hộ trì bắt nguồn từ chuyến viếng thăm Tỳ-xá-ly của A-nan-đà, khi ông tụng bài Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) và rảy nước từ bình bát của mình. Một truyền thống thứ ba, đôi khi, được cho là nhờ A-nan-đà khởi xướng chính là việc sử dụng cây bồ đề trong Phật giáo. Kāliṅgabodhi Jātaka thuật lại rằng A-nan-đà đã trồng một cây bồ đề như biểu tượng cho sự giác ngộ của Phật, nhằm giúp mọi người có cơ hội đảnh lễ Phật dù ngài không trực tiếp hiện diện. Cây và tháp thờ này về sau được gọi là cây bồ đề A-nan-đà, và được cho là là mọc lên từ hạt giống của chính cây bồ đề nơi Phật thành đạo. Nhiều tháp thờ loại này tại Đông Nam Á đã được dựng lên theo hình thức và ý nghĩa đó.

Trong nghệ thuật

Trong giai đoạn 1856–1858, Richard Wagner đã viết nháp một kịch bản opera dựa trên truyền thuyết về A-nan-đà và một cô gái hạ cấp tên là Ma-Đăng-Già. Ông chỉ để lại một dàn ý văn xuôi dang dở cho tác phẩm dự định mang tên Die Sieger (“Những người chiến thắng”), nhưng chủ đề này đã gợi cảm hứng cho vở opera Parsifal của ông sau này. Trong phiên bản nghệ thuật của Wagner – dựa trên bản dịch của nhà Phật học Eugène Burnouf – bùa phép của mẹ Ma-đăng-già không khiến A-nan-đà xiêu lòng, và Ma-đăng-già tìm đến Phật để giãi bày nỗi niềm yêu mến A-nan-đà của mình. Phật trả lời rằng sự kết hợp giữa Ma-đăng-già và A-nan-đà là có thể, nhưng Ma-đăng-già phải chấp thuận các điều kiện của Phật. Ma-đăng-già đồng ý, và hóa ra Phật có ý khác với cô: Ngài yêu cầu Ma-Đăng-Già xuất gia làm một Tỳ-kheo ni, sống đời phạm hạnh như một người chị tinh thần của A-nan-đà. Thoạt đầu, Ma-đăng-già bật khóc buồn bã, nhưng sau khi Phật giải thích rằng hoàn cảnh hiện tại của cô là do nghiệp từ đời trước, cô đã hiểu và hoan hỷ chấp nhận xuất gia sống đời sống của một vị ni. Bên cạnh những chủ đề tâm linh, Wagner còn lên án những khiếm khuyết của hệ thống giai cấp khi để Phật đích thân phê phán nó.

Cùng truyền thuyết về A-nan-đà và Ma-đăng-già đã được đại thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore chuyển thể thành một vở kịch văn xuôi ngắn mang tên Chandalika. Chandalika đề cập đến những xung đột tinh thần, hệ thống giai cấp và bình đẳng xã hội, đồng thời hàm chứa sự phê phán mạnh mẽ đối với xã hội Ấn Độ đương thời. Cũng như trong truyện nguyên tác, Ma-đăng-già đem lòng yêu A-nan-đà sau khi ông cho cô lòng tự trọng bằng cách nhận bát nước cô dâng. Mẹ của Ma-đăng-già đã yểm bùa để mê hoặc A-nan-đà. Tuy nhiên, trong kịch bản của Tagore, về sau Ma-đăng-già hối hận vì việc mình làm và đã tự mình hóa giải bùa chú đó.

Chú giải

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Tôn giả A-nan-đà, nổi danh là người "nghe và nhớ nhiều nhất", được xem là Nhị tổ [[Thiền tông Ấn Độ]] **A-nan-đà** (Ānanda, zh. 阿難陀, sa., pi. _ānanda_, bo. _kun dga` bo_ ཀུན་དགའ་བོ་), thường viết
phải|Bộ [[tượng La hán bằng đá trên đỉnh núi Cấm (An Giang)]] **A-la-hán** (tiếng Phạn: _arhat, arhant_; tiếng Pali: _arahat, arahant_; tiếng Tạng: _dgra com pa_; tiếng Trung: 阿羅漢|阿羅漢) trong dân gian thường gọi là
**Jaya Ananda** (Phạn văn: जय आनंद, chữ Hán: 制阿難 / **Chế A-nan**; ? - 1342) là tên gọi theo Việt sử của một nhân vật được nhà Trần lập làm quốc chủ Champa vào năm
Cây Nặn Mụn 2 Đầu - Tiệt Trùng, Sát Khuẩn - Que Nặn Mụn Cao Cấp Tâm Sinh An CosmeticNẶN CÁC LOẠI MỤN ĐẦU ĐEN, MỤN CÁM, MỤN VIÊM, MỤN TRỨNG CÁ, MỤN MỦ✔️ Hơn
Que nặn mụn 2 đầu thép không gỉ Sử dụng kim nặn mụn này là một trong những cách an toàn .n.h.ấ.t. để làm thông thoáng lỗ chân lông của bạn hơn là dùng móng
**Phật Đà Kỷ Niệm Quán Phật Quang Sơn** (Fo Guang Shan Buddha Museum) Gọi tắt là (Phật Quán), tòa kiến trúc Phật giáo tại thành phố Cao Hùng, Đài Loan. Đây là nhà Bảo Tàng
Đây là bài viết chi tiết về **lịch sử câu lạc bộ A.C. Milan** một trong những câu lạc bộ bóng đá thành công nhất thế giới. Ở đấu trường quốc tế, đội đã giành
Đã có nhiều **tranh cãi** xung quanh **Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021**, được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam. ## Tiếp thị ### Bộ nhận diện nhiều lỗi chính tả, ngữ
MÁY SỤC DA DERMAFLASH DERMAPORE PORE EXTRACTOR & SERUM INFUSER Skin spatula là khái niệm không mới trong giới làm đẹp ạ. Em khẳn định là thế. Nhưng nhưng nhưng nhưng nhưng tìm được 1
MÁY SỤC DA DERMAFLASH DERMAPORE PORE EXTRACTOR & SERUM INFUSER Skin spatula là khái niệm không mới trong giới làm đẹp ạ. Em khẳn định là thế. Nhưng nhưng nhưng nhưng nhưng tìm được 1
Size:30ml/chai Lý do bạn cần sản phẩm này: Là sản phẩm Retinoltốt nhất nước Mỹ *, Retinol Youth Renewal Serum được ứng dụng công nghệ RetinolTri-Active mang tính đột phá trong ngành khoa học -
Dùng được cho mọi loại da, kể cả da dầu ▪️ Loại da phù hợp: Da tổn thương (da bị kích ứng, nặn mụn, da dính kem trộn, da vừa can thiệp thẩm mỹ như
KEM DƯỠNG DA LA ROCHE-POSAY Làm Dịu, Hỗ Trợ Phục Hồi Da 40ml Cicaplast Baume B5 Soothing Repairing BalmKem dưỡng làm dịu kích ứng & phục hồi da Cicaplast Baume B5 Soothing Repairing Balm 40ml
❤️ Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng 850ml- Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng chứa tinh dầu hoa hồng tự nhiên cùng chiết xuất ôliu, nhẹ nhàng làm sạch, mềm mịn da và
Collagen là 1 thành phần cực kỳ quan trọng cho sức khỏe, cho sắc đẹp, cho sự chống lại lão hóa. Phụ nữ chúng mình mỗi năm đều mất dần lượng collagen khiến mình ngày
❤️ Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng 850ml- Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng chứa tinh dầu hoa hồng tự nhiên cùng chiết xuất ôliu, nhẹ nhàng làm sạch, mềm mịn da và
❤️ Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng 850ml- Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng chứa tinh dầu hoa hồng tự nhiên cùng chiết xuất ôliu, nhẹ nhàng làm sạch, mềm mịn da và
❤️ Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng 850ml- Sữa Tắm Purité Mềm Mịn Hoa Hồng chứa tinh dầu hoa hồng tự nhiên cùng chiết xuất ôliu, nhẹ nhàng làm sạch, mềm mịn da và
Bộ mỹ phẩm KAYOKO trị nám da Nhật Bản ( Bộ 5 )Nám da, tàn nhang là hiện tượng tăng cao sắc tố da, đa phần phụ nữ bị nám sau tuổi 30. Nám da
✔Tất cả các sản phẩm đều được mình order trực tiếp từ UK không qua bất kì trung gian mua hàng khác ,có đầy đủ bill mua hàng và vận chuyển nên khách hàng hoàn
✔Tất cả các sản phẩm đều được mình order trực tiếp từ UK không qua bất kì trung gian mua hàng khác ,có đầy đủ bill mua hàng và vận chuyển nên khách hàng hoàn
Trong công cuộc skincare làm đẹp thì tinh chất được xem như là một bước cần thiết giúp mang lại hiệu quả cải thiện làn da rõ rệt trong công cuộc dưỡng da của bạn,
là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Nhật Bản tại các giải đấu khu vực, châu lục và thế giới. Đội được quản lý bởi Hiệp hội bóng đá Nhật Bản (JFA).
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
Bộ Tái Sinh Da OHUI The First Geniture Special Gift Hàn Quốc - Set Mini 5 sản phẩm - Giúp Chống Lão Hóa Hiệu Quả, Ngăn Ngừa Chảy Xệ Và Duy Trì Sự Tươi Trẻ
==> Bộ Tái Sinh Da OHUI The First Geniture Special Gift Set Mini có khả năng hồi sinh làn da, mang lại sức sống kỳ diệu cho làn da phụ nữ. Bộ sản phẩm chăm
THUỘC TÍNH SẢN PHẨM Nhãn hiệu: Đang cập nhật. Xuất xứ: Việt Nam. Loại da: Mọi loại da. Hạn sử dụng: 2022. Ngày sản xuất: 2019. CHI TIẾT SẢN PHẨM Với chiết xuất hoàn toàn
**Tăng nhất A-hàm** (chữ Hán: 增壹阿含; tiếng Phạn: _Ekottara Āgama_) là một trong bốn bộ kinh văn A-hàm của Kinh tạng (_Sūtra Piṭaka_) Phạn ngữ. Là một kinh văn quan trọng trong Kinh điển Phật
VCU Beauty đã có mặt trên Shopee.Hương thơm nồng nàn của bưởi và mộc qua, nhờ vào hương mộc qua mà hương đầu không quá gắt. Hương bưởi tạo cảm giác thanh mát, thoang thoảng
thumb|Liban (áo trắng) trong trận đấu với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Qatar|Qatar tại Asian Cup 2019]] **Liban** đã có ba lần tham dự **Cúp bóng đá châu Á** (còn được gọi là **AFC
MÔ TẢ SẢN PHẨM Cây nặn mụn được thiết kế bằng thép không rỉ vừa gọn và giúp dễ loại bỏ nhân mụn trên cơ thể Cách Nặn mụn đầu mũi đúng cách: Bước 1:Trước
nhỏ|Tượng minh hoạ [[Đức Phật Chuyển Pháp Luân tại Bảo tàng khảo cổ học Sarnath của Ấn Độ vào thế kỷ 3-5]] **Phật giáo** (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: _Buddha
**Ma-ha-ca-diếp** (, tiếng Pali: Mahakassapa) còn gọi là Tôn giả Ca Diếp hay **Đại Ca Diếp** là một người Bà la môn xứ Ma Kiệt Đà, cha tên Ẩm Trạch, mẹ tên Hương Chí. Ông
Review foreo mini 3Trăng thanh gió mát không có gì làm nên em quyết định viết cái blog này review cho mấy chị em tham khảo trước khi mua máy đây Cái bản chất con
Review foreo mini 3Trăng thanh gió mát không có gì làm nên em quyết định viết cái blog này review cho mấy chị em tham khảo trước khi mua máy đây Cái bản chất con
Review foreo mini 3Trăng thanh gió mát không có gì làm nên em quyết định viết cái blog này review cho mấy chị em tham khảo trước khi mua máy đây Cái bản chất con
nhỏ|phải|Tượng các đệ tử của Đức Phật, đặt tại trong Miếu Ngũ Hành Nương Nương **Thập đại đệ tử** (chữ Hán: 十大弟子, ) là danh xưng dùng để chỉ mười đệ tử quan trọng của
**Mạng lưới khuyến khích điện ảnh châu Á** (tên gốc tiếng Anh: **The Network for the Promotion of Asian Cinema**, viết tắt: **NETPAC**) là một tổ chức toàn cầu gồm 29 quốc gia thành viên.
SỮA TẮM CÁ NGỰA ALGEMARIN - Dòng sữa tắm lâu đời với hương thơm đặc trưng nồng nàn từ Đức 100% hàng chuẩn Đức Dung tích: 500ml Sữa tắm rất đặc, không gây nhờn như
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
Mặt Nạ Đẩy Mụn Good Bye Blackhead CiracleTheo cách thông thường thì mọi người hay sử dụng miếng lột mụn hay dùng cây nặn mụn để nặn mụn đầu đen và mụn ẩn trên mũi,
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
THÀNH PHẦN :Bảng thành phần của sữa tắm này không quá đa dạng. Mỗi loại đều chứa chủ yếu 4 thành phần chính, đó là:- Lactacyd BB: Thành phần làm sạch, cân bằng độ pH
SET 4 CÂY NẶN MỤN CHUYÊN DỤNG ❤️ Nếu dùng tay xử lý mụn sẽ rất dễ gây nhiễm trùng, nhưng dùng cây nặn để lấy mụn thì thực sự rất dễ, mụn ra nhanh