✨Công giáo tại Việt Nam

Công giáo tại Việt Nam

Công giáo tại Việt Nam là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ lệ 7,21% và số giáo dân trên 7,2 triệu người (2022),

Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16 và được thiết lập vững chắc bởi các thừa sai Dòng Tên Bồ Đào Nha và Ý vào đầu thế kỷ 17. Nền tảng truyền giáo do các tu sĩ Dòng Tên xây dựng được tiếp nối bởi Hội Thừa sai Paris Pháp và Dòng Đa Minh Tây Ban Nha. Các linh mục người Việt đầu tiên được thụ phong vào năm 1668. 2 giám mục người Việt tiên khởi là Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng và Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn được bổ nhiệm vào thập niên 1930. Năm 1960 chứng kiến sự hình thành Hàng Giáo phẩm Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam thống nhất được thành lập năm 1980. Ngoài ra còn có tổ chức Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam do chính phủ ủng hộ, được thành lập năm 1955 tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Theo số liệu điều tra dân số chính thức của Nhà nước năm 2019, Công giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam, với 5,9 triệu người, chiếm khoảng 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước . Theo thông tin từ trang Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam, tính đến năm 2021, Công giáo tại Việt Nam có 47 Giám mục, hơn 6000 linh mục; khoảng 200 dòng tu, với hơn 31.000 nam nữ tu sĩ, trên 7 triệu tín hữu Công giáo, hơn 10.000 cơ sở thờ tự (tính đến năm 2010) thuộc về ba Giáo tỉnh là Hà Nội, Huế, và Sài Gòn. Theo thông tin từ Bản Tổng kết Tiền Thượng Hội đồng Giám mục công bố vào tháng 8 năm 2022, số giáo dân của tôn giáo này đạt mức 7.294.713 người, tỉ lệ 7,21% dân số Việt Nam.

Tên gọi

Trong tiếng Việt, thuật ngữ Công giáo được dùng để dịch chữ καθολικος, catholicus hoặc catholique, với ý nghĩa đó là "đạo chung, đạo phổ quát" đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. Các văn kiện tiếng Việt của Giáo hội hoặc Hội đồng Giám mục Việt Nam đều dùng chữ "Công giáo", Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam cũng dùng chữ "Công giáo". Tuy nhiên, trong ngữ cảnh không chính thức thì "Công giáo" cũng được gọi là "Kitô Giáo" hay "đạo Thiên Chúa".

Ngoài ra, Giáo hội Công giáo (hoặc Hội Thánh Công giáo) mang tính chất thống nhất và chỉ có một trên toàn cầu, cộng đồng người Công giáo tại Việt Nam (hoặc các nơi khác) là một bộ phận của nó, gọi là "giáo hội địa phương". Giáo hội Công giáo không thành lập giáo hội riêng cho từng quốc gia, cho nên thuật ngữ "Giáo hội Công giáo Việt Nam" là không đúng vì gây hiểu nhầm về việc có một tổ chức Công giáo riêng tại Việt Nam.

Lịch sử

Thời kỳ hình thành (1533 – 1659)

Những tiếp xúc ban đầu

Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, Việt Nam đã bắt đầu giao thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp và với Nhật Bản ở châu Á để trao đổi hàng hóa và vũ khí quân sự. Thời gian này, Công giáo cũng mở rộng truyền giáo đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á châu.

Bấy giờ là thời kỳ hoàng kim của 2 cường quốc Phục Hưng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Đều là những quốc gia Công giáo kỳ cựu, cả hai nước cạnh tranh nhau quyết liệt trong địa hạt kinh tế và tìm kiếm Vùng đất Mới hay Tân Thế giới. Các mâu thuẫn lớn đến mức, cả hai nước phải cùng xin Giáo hoàng làm trọng tài giải quyết. Do đó, Giáo hoàng Alexandre VI đã ban Sắc chỉ "Inter Caetera" ngày 4 tháng 5 năm 1493, phân chia theo hướng Đông Tây quả địa cầu cho hai vương quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, theo đó vùng đất bờ phía Tây Phi Châu và vùng Đông Ấn, bao quát từ Ấn Độ, Xiêm La, Malacca, Sumatra, Java, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản, được đặt dưới chế độ bảo trợ của Bồ Đào Nha. Phần lại của thế giới mới được đặt dưới chế độ bảo trợ của Tây Ban Nha.

Do sự phân chia này, các thừa sai Bồ Đào Nha hay các quốc tịch khác đều phải tập trung, bị kiểm soát tại hải cảng Lisbõa để xuống tàu lên đường truyền giáo vùng Đông Ấn. Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez de Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam. Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục được Quốc sử quán triều Nguyễn soạn thảo dưới triều Tự Đức có nói đến chỉ dụ cấm đạo Công giáo (khi đó gọi là đạo Gia-tô, phiên âm từ chữ Giê-su trong tiếng Hán) chú thích như sau:

Các làng trên lần lượt thuộc các huyện Trực Ninh, Hải Hậu và Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay. Tuy nhiên những chi tiết liên hệ tới I-nê-khu (có thể là phiên âm của Inácio trong tiếng Bồ Đào Nha, Ignacio hoặc Íñigo trong tiếng Tây Ban Nha) ngày nay không còn được ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng như về công cuộc truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất này. Mặc dù vậy, với dấu tích đầu tiên trong tài liệu sử chính thống, nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 là năm khởi đầu cho đạo Công giáo tại Việt Nam.

Theo linh mục Marcos Gispert, O.P., nhà sử học Dòng Anh Em Giảng Thuyết (thường gọi là Dòng Đa Minh) đã sống tại Việt Nam 34 năm, sau I-nê-khu còn một số nhà truyền giáo khác như:

  • Linh mục Gaspar da Cruz, thuộc Tỉnh Dòng Thánh Giá Đông Ấn, vào năm 1550 từ Malacca đổ bộ lên Hà Tiên, và sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi Quảng Đông.
  • Hai linh mục Lopez và Acevedo: năm 1558 đã tới giảng vùng Cao Miên trong 10 năm.
  • Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) cũng từ Malacca tới, suốt 6 năm đi truyền giáo tại Quảng Nam trong thời Chúa Nguyễn Hoàng (1580-1586).

Để thuận lợi hơn trong vấn đề truyền giáo, ngày 3 tháng 11 năm 1534, Giáo hoàng Phaolô III ban Sắc chỉ "Aequum Reputamus" thiết lập Giáo phận Goa (Hạt Đại diện Tông tòa Goa) khởi từ mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Nhật Bản, bao gồm quốc gia Đại Việt. Ngày 4 tháng 2 năm 1557, Giáo hoàng Phaolô IV ký Sắc chỉ "Pro Exellenti Praeminentia" thiết lập Giáo phận Malacca, bao gồm lãnh thổ Indonesia, Malaysia, Xiêm, Cam Bốt, Chàm, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản. Năm 1558, giáo sĩ Jorge da Santa Lucia, Dòng Đa Minh Bồ Đào Nha, được phong Giám mục tiên khởi Giáo phận Malacca. Đến ngày 23 tháng 1 năm 1576, Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban Sắc chỉ "Super Specula Militantis Ecclesiae", thành lập Giáo phận Macao, tách ra từ Giáo phận Malacca, gồm lãnh thổ Trung Hoa, Đại Việt và Nhật Bản.

Mặc dù cả hai giáo phận Malacca và Macao đều thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha, tuy nhiên đã có rất nhiều nhà truyền giáo thuộc nhiều dòng tu và hội thừa sai khác đã đến Việt Nam. Năm 1596 thầy dòng người Tây Ban Nha tên là Don Diego d’Averte đã đặt chân đến Huế, nhưng bị đuổi đi ngay. Năm 1614 những nhà truyền giáo dòng Tên theo chân các thương nhân người Bồ Đào Nha từ Macao, qua phía nam Trung Hoa, để đến Việt Nam. Các bề trên Dòng Tên còn thành lập hẳn một tổ chức truyền giáo tại Đàng Trong (la Mission de Cochinchine) năm 1615.

Các cộng đoàn tiên khởi

Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên đã không đạt được thành tựu thường trực. Sang thế kỷ 17, các vị thừa sai Dòng Tên thuộc nhiều quốc tịch dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha đã thiết lập nền tảng Công giáo vững chắc tại Đại Việt. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615 tới năm 1659, vào cùng thời điểm lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm quyền.

Các linh mục Dòng Tên theo chân Thánh Phanxicô Xaviê truyền giáo tại Nhật Bản từ năm 1549, bị Shogun Tokugawa Hidetada ra sắc lệnh trục xuất khỏi Nhật Bản năm 1614, đã tập trung tại Macao (được xem như một đầu cầu thành lập từ năm 1564). Từ kinh nghiệm truyền giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản, các thừa sai rất quan tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục Việt Nam và giảng đạo bằng tiếng Việt. Các linh mục Dòng Tên ở lại Việt Nam cho tới năm 1788. Vắng bóng đi trong một thời gian 169 năm (1788-1957).

Ngày 18 tháng 1 năm 1615, hai linh mục Francesco Buzomi và Diogo Carvalho cùng các trợ sĩ đến Cửa Hàn, Đà Nẵng. Tiếp theo các linh mục khác như Francisco de Pina, Christoforo Borri, Alexandre de Rhodes, Girolamo Maiorica đều đến Đàng Trong trước. Năm 1626, linh mục Giuliano Baldinotti và tu huynh Julius Piani ra Đàng Ngoài tìm hiểu tình hình, được chúa Trịnh Tráng tiếp đãi nồng hậu. Ngày 19 tháng 3 năm 1627, hai linh mục de Rhodes và Pedro Marques cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa, khởi đầu công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Vì nhu cầu học hỏi tiếng Việt (lúc đó mới chỉ được viết bằng chữ Nôm, ngoài việc chữ Hán được dùng làm văn tự chính thức), các giáo sĩ bắt đầu ghi lại âm tiết tiếng Việt dưới dạng chữ Latinh. Các giáo sĩ đã có gắng tổ chức giáo hội bằng cách tập trung khắp nơi những thanh thiếu niên và cả người đã đứng tuổi thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các linh mục trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo lánh để chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý cho dân chúng và cũng giúp nâng cao đời sống xã hội của người dân; họ được gọi là các Kẻ giảng và Thầy giảng.

Chữ Quốc ngữ được dùng để ghi âm tiếng Việt theo chữ cái Latinh nhưng song hành với đó, kho tàng văn chương Hán-Nôm Công giáo còn lớn hơn nữa. Chỉ riêng giáo sĩ Girolamo Maiorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác phẩm bị hư hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại tôn giáo.

Việc truyền đạo được vua chúa Việt Nam cho phép trong một số nơi với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín đồ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, có nơi phải bị giết chết như trường hợp thầy giảng Anrê Phú Yên ở Quảng Nam ngày 26 tháng 7 năm 1644. Ngày 3 tháng 7 năm 1645, linh mục Alexandre de Rhodes rời Việt Nam về Roma để báo cáo cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền đạo tại Việt Nam, nhất là xin gửi một số Giám mục đến truyền giáo tại Việt Nam, nơi mà ông gọi là "cánh đồng truyền giáo phì nhiêu" để củng cố nền móng cho Giáo hội tại nước này. Ông được Tòa Thánh cho phép đi khắp nước Pháp đi tìm kiếm những linh mục sẵn sàng xung phong và tiếp tục công việc đã khởi sự với nhiều thành quả tốt đẹp. Hai linh mục Pallu và de la Motte được bổ nhiệm làm giám mục và đặt làm Đại diện Tông tòa tới Viễn Đông năm 1658. Hội Thừa sai Paris (Missions Étrangères de Paris) được thành lập năm 1663 dưới thời Giáo hoàng Alexanđê VII.

Thời kỳ phát triển (1659 – 1820)

Thánh giá khảm xà cừ thế kỷ 19 theo nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII qua Sắc chỉ Super Cathedram quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận tách ra từ giáo phận Macao, và chọn hai người thừa sai thuộc Hội Thừa sai Paris làm Đại diện Tông Tòa. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam do Giám mục Pierre Lambert de la Motte cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc do Giám mục François Pallu cai quản.

Năm 1669, Lambert tới Phố Hiến (Hưng Yên) và đầu năm 1670, ông truyền chức linh mục cho 7 thầy, chủ toạ công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập Dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Bùi Chu) và Bái Vàng (Hà Tây).

Hội Thừa sai Paris có công lớn với giáo hội Việt Nam bằng cách:

  • Đã triệu tập Hội nghị Mục vụ đầu tiên: ngày 14 tháng 2 năm 1670 tại Đình Hiến tỉnh Nam Định, Giám mục Lambert de la Motte đã quy định thể chế nhà Đức Chúa Trời (giáo hội), và thành lập Dòng Mến Thánh Giá, các chị em nữ tu là những cộng tác viên rất đắc lực của hàng giáo phẩm trong việc truyền đạo bên cạnh giáo dân, nhất là trong các vùng thôn quê.
  • Đã xây dựng Đại chủng viện Penang (1870) để đào tạo các linh mục bản xứ châu Á và Việt Nam: các thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ đây; và suốt ba thế kỷ đã gắn bó với giáo hội địa phương cho tới sáng ngày 12 tháng 8 năm 1975, ngày mà các vị thừa sai ngoại quốc sau cùng được lệnh ra khỏi Việt Nam.

Theo lời mời của Giám mục Phanxicô Pallu vì những đòi hỏi rất khẩn trương tại Việt Nam, số tín hữu tân tòng tiếp tục gia tăng, linh mục giám tỉnh Dòng Anh Em Giảng Thuyết là Felipe Pardo, O.P., từ Manila đã phái hai linh mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đi lối Trung Linh (Bùi Chu) lên Phố Hiến (Hưng Yên) ngày 7 tháng 7 năm 1676. Nhưng sự bất hoà giữa các thừa sai Dòng Tên và các Giám mục thuộc Hội Thừa sai Paris, cùng với các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa Việt Nam khi ấy khiến các vị thừa sai đã đi tìm một giải pháp mới, mà người ta cho rằng, đã tạo cơ hội người Pháp có điều kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực sau này.

Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài (từ sông Hồng tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa sai Paris dưới quyền quản nhiệm của Giám mục Bourges, và Đông Đàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng chạy ra biển), ban đầu cũng do Giám mục Deydier của Hội Thừa sai Paris phụ trách nhưng năm 1693, Giám mục Deydier qua đời, Giám mục De Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Đa Minh, vì từ 20 tháng 8 năm 1679 tất cả số nhân sự của dòng đó đã tập trung về đây.

Đồng thời, linh mục Tổng quyền Dòng Anh Em Giảng Thuyết sáp nhập các cơ sở truyền giáo của Hội Dòng tại miền Bắc hồi đó vào Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tại Philippines. Từ Nhà Tổng quyền S. Sabina (tại Roma) cha Raimondo Lezoli, O.P., được Thánh bộ Truyền giáo đề cử sang tiếp tay với linh mục Juan de Santa Cruz (lúc đó đang ở Trung Linh), về sau Tòa Thánh yêu cầu ông chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Đông. Ngày 2 tháng 2 năm 1702, tại Kẻ Sặt linh mục Raimondo Lezoli được thụ phong Giám mục tiên khởi của Dòng Đa Minh tại miền Bắc. Dòng Đa Minh tiếp tục có nhiều vai trò tại Đông Đàng Ngoài tới hơn 250 năm sau đó. Một trong những hạt giống mà Dòng Giảng Thuyết đã gieo sâu trong lòng dân tộc bản xứ là sự tôn sùng tràng hạt Đức Mẹ Mân Côi vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tại Nam Bộ, người Công giáo cũng sớm hiện diện và góp phần làm nên khuôn mặt vùng đất mới này.

Các thừa sai tại Việt Nam trong hai thế kỷ 17, 18 là những người thuộc Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris, Dòng Đa Minh, Dòng Âu Tinh Chân đất, Dòng Phan Sinh, hoặc do Bộ Truyền bá Đức Tin trực tiếp phái tới. Tới cuối thế kỷ 18, Công giáo đã trở thành một phần vững chãi trong khung cảnh tâm linh và xã hội Việt Nam, đặc biệt là tại Đàng Ngoài. Chính quyền Đàng Trong thì dùng nhiều giáo sĩ phương Tây vì tài năng khoa học của họ.

Giám mục Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện Tông tòa Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, khi ông đang bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Giám mục này đã đưa hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh (lúc bấy giờ mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh.

Tâm định của các vị thừa sai và của Giám mục Bá Đa Lộc là muốn cho người Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng. Ông đã nuôi dạy Hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến Gia Long rất bực tức. Bá Đa Lộc cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con thứ là hoàng tử Đảm sau này.

Bá Đa Lộc chết ngày 9 tháng 10 năm 1799 và hoàng tử Cảnh chết năm 1801, hi vọng của người Công giáo Việt Nam về một thời kì tự do truyền đạo trở nên mờ nhạt. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân, Huế. Nhớ ơn Giám mục Bá Đa Lộc, Gia Long cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Thời kỳ này, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 3 giáo phận như sau:

  • Giáo phận Đông Đàng Ngoài: 140.000 tín hữu, 41 linh mục Việt Nam, 4 linh mục thừa sai và 1 giám mục.
  • Giáo phận Tây Đàng Ngoài: 120.000 tín hữu, 65 linh mục Việt Nam, 46 linh mục thừa sai và 1 giám mục.
  • Giáo phận Đàng Trong: 60.000 tín hữu, 15 linh mục Việt Nam, 5 linh mục thừa sai và 1 giám mục.

Một số người nhận định rằng nhà vua có thiện cảm với đạo nhưng không muốn theo đạo vì thấy luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục đa thê và việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói: "Đạo Thiên Chúa rất hợp với đạo lý nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc dù ta thấy là trị cả nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình ta được yên ấm".

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, vua Gia Long không có thiện cảm với Công giáo, và chủ trương hạn chế sự phát triển của tôn giáo này trong thời kỳ mà mình cai trị. Chỉ dụ năm Gia Long thứ 3 (1804) về chấn chỉnh các hoạt động tôn giáo có ghi:

...Từ nay về sau, dân gian người nào có bệnh tật, chỉ được mời thầy chữa thuốc, không được nghe nhảm những việc yêu tà, cầu cúng càn dở, thấy phù thủy, kẻ đồng cốt, không được thờ phụng đèn hương, để trừ tà, chữa bệnh cho người. Nếu còn quen giữ thói cũ, tất phải trị tội nặng. Lại như Gia tô là giáo phái ở phương xa, lưu hành vào trong nước, đặt ra tên địa ngục quỷ quái, nêu ra thuyết thiên đường thần kỳ, dần dần kẻ ngu phu, ngu phụ theo đuổi điên cuồng, tiêm nhiễm thành thói mà mà không biết. Từ nay, phàm các xã dân có nhà thờ Gia tô đổ nát, phải làm đơn trình lên quan ở trấn mới được sửa chữa. Còn làm nhà thờ mới đều cấm. Nếu quen giữ thói làng, can phạm phép nước, khi phát giác ra, xã trưởng phải lưu đày châu xa, còn dân làng ai tội nặng thì sung cấp làm phu sai dịch, ai tội nhẹ thì phân biệt phạt tội xuy tội trượng.
Với nhân số năm 1802 là 320.000 người, số tín hữu Công giáo chiếm khoảng 3% dân số cả nước.

Thời kỳ thử thách (1820 – 1885)

thế=|nhỏ|300x300px|Tranh vẽ cuộc tử đạo của nhà truyền giáo [[Augustin Schoeffler tại Sơn Tây năm 1851.]] Thời kỳ này gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu do Nhà Nguyễn cấm đạo và giai đoạn sau do phong trào Văn Thân tàn sát người Công giáo. Vua Minh Mạng (cai trị từ 1820 tới 1841) bắt đầu thực hiện các chính sách cấm đạo khắc nghiệt. Pháp mở đầu xâm lược Việt Nam năm 1858, và chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo Hòa ước Nhâm Tuất 1862. Với Hiệp ước này, Nhà Nguyễn cũng công nhận quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên từ sau Hiệp ước này, phong trào Văn Thân của các nho sĩ với khẩu hiệu "bình Tây sát Tả" nổi lên tàn sát người Công giáo vì cho rằng nhóm này là cộng tác với thực dân Pháp, đặc biệt vào những năm 1867-1868, 1873-1874 và 1883-1885.

Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận mới: Tây Đàng Trong (trung tâm là Sài Gòn) gồm sáu tỉnh Nam Kỳ và Cao Miên do Giám mục Dominique Lefèbvre Ngãi cai quản, Đông Đàng Trong (trung tâm là Quy Nhơn) do Giám mục E.T. Cuénot Thể cai quản.

Năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài (trung tâm là Hà Nội) do Giám mục P.A. Retord Liêu cai quản và Nam Đàng Ngoài (trung tâm là Vinh) do Giám mục Gauthier Hậu cai quản.

Năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài lại chia thành Đông Đàng Ngoài (trung tâm là Hải Phòng) và Trung Đàng Ngoài (trung tâm là Bùi Chu). Cũng trong năm này, Tự Đức lên ngôi vua và ra dụ cấm đạo, cũng vì sự cấm đạo tàn nhẫn này dẫn tới thực dân Pháp lấy làm cớ xâm chiếm Việt Nam.Năm 1850, Tòa Thánh lại chia địa phận Tây Đàng Trong thành hai: Tây Đàng Trong (các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long) do Giám mục Lefèbvre cai quản và Nam Vang (phần đất các tỉnh phía nam Hậu Giang của Việt Nam và cả nước Cao Miên) do Giám mục J.C. Miche Mịch cai quản. Giáo phận Đông Đàng Trong cũng chia thành hai: Bắc Đàng Trong là Huế (gồm Nam Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên Huế) do Giám mục F.M. Pellerin Phan cai quản và Đông Đàng Trong gồm các tỉnh từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên do Giám mục Cuénot Thể cai quản.

;Giai đoạn Pháp xâm chiếm Đại Nam

Năm 1856, chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về việc giết giáo sĩ Công giáo. Không được trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có Giám mục Pellerin trốn được lên tàu, về Pháp thuật lại cho triều đình Pháp cảnh tượng các giáo sĩ Công giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam. Cùng sự tác động của Hoàng hậu Pháp Eugénie, một người rất sùng đạo, Hoàng đế Pháp Napoléon III (1808 - 1873) quyết ý đánh Việt Nam. Năm 1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris và được Napoleon tiếp kiến. Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên Việt Nam. Tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, quân đội viễn chinh Pháp đã không nhận được sự hỗ trợ của giáo dân như Giám mục Pellerin đã hứa (hiện chưa rõ quy mô của giáo dân Đà Nẵng năm 1858). Có ý kiến cho rằng đây là lần duy nhất có sự tham dự của giáo sĩ Công giáo vận động Pháp chiếm Việt Nam, cho thấy giáo dân dù bị chính quyền tàn sát nhưng không quay lưng lại với đất nước. Tuy vậy, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, một số người cho rằng, quan chức triều đình và giới Văn Thân với đầu óc kỳ thị tôn giáo và quan niệm sai lạc đã không hiểu biết về tư tưởng trung quân, ái quốc của người Công giáo.

Khác với quan điểm trên, bức thư do đô đốc François Page gửi cho bộ trưởng hải quân cuối năm 1859, cho thấy rằng quân đội viễn chinh Pháp đã có được sự hỗ trợ đáng kể từ đội ngũ giáo dân trước khi phong trào Văn Thân nổ ra: Năm 1861, tại Bắc Kỳ nổ ra cuộc nổi dậy do một người Công giáo là Tạ Văn Phụng lãnh đạo. Lê Duy Minh tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều Nguyễn. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh thì Lê Duy Phụng hành động theo lệnh Pháp vì khi đó Pháp đang xâm chiếm Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì cuộc nổi dậy này là một trong số nguyên nhân chính đã làm cho vua Tự Đức phải vội vã sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định giảng hòa với thực dân Pháp.

Theo hòa ước với Pháp năm 1862, nhà Nguyễn bỏ việc cấm đạo Công giáo. Năm 1864, để phản ứng lại âm mưu giết hại người Công giáo của giới Văn Thân ở Huế, vua Tự Đức hạ dụ:

Phan Phát Huồn nhận định rằng dù sắc dụ trên có điều sai lạc nhưng Tự Đức đã công nhận sự trung thành và bị vu oan của người Công giáo. Năm 1869, Tự Đức ra hai sắc dụ bảo vệ người Công giáo: cho phép người Công giáo được tập hợp thành làng, có lý trưởng Công giáo, và cấm người lương nhục mạ và quấy rầy lễ nghi của người Công giáo. Tuy vậy đối với nhiều người, Tự Đức không còn đủ uy tín, và phong trào Văn Thân chống đối ông bắt đầu nổi lên tàn sát người Công giáo.

Sau khi hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký kết, chiến lược của các giáo sĩ công giáo 3 miền cũng có sự phân hóa rõ rệt. Phó đô đốc Bonard, trong bức thư của mình năm 1862 đã mô tả về điều này như sau: Còn theo tuần báo văn nghệ TPHCM, cuộc tuyển mộ này được thực hiện bởi linh mục Trần Lục, trong 12.000 - 14.000 lính đánh thuê này thì đa số là giáo dân Công giáo.

Tháng 8 năm 1885, giám mục Puginier yêu cầu tướng Courcy phải bắt Nguyễn Văn Tường để bắt giam. Giám mục Puginier đưa ra chủ trương ổn định thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa: "Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ Công giáo thì nó sẽ là một nước Pháp nhỏ".

Vào năm 1883, Tòa Thánh lại tách địa phận Đông Đàng Ngoài thành: Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng) và Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh) do Giám mục Colomer Lễ cai quản.

Như vậy, các giáo phận lúc này gồm: ở Đàng Trong là Tây Đàng Trong (Sài Gòn), Đông Đàng Trong (Quy Nhơn), Bắc Đàng Trong (Huế), Cao Miên (Cần Thơ). Ở Đàng Ngoài là Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), Nam Đàng Ngoài (Vinh), Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng), Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu) và Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh).

Hậu kỳ cận đại (1886 – 1975)

Giai đoạn 1886 – 1945

Khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Thân 1884 với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp thì Công giáo Việt Nam lúc đó được tự do, công khai hoạt động. Các cơ sở tôn giáo như nhà thờ, tu viện, tòa giám mục, trường học, viện dưỡng lão, viện cô nhi... được xây dựng khắp nơi. Các giáo phận được chia nhỏ lại. Miền Bắc gồm các giáo phận: Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Vinh, Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh và một Phủ doãn Tông Tòa là Lạng Sơn. Miền Nam gồm các giáo phận: Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế, và một phần của giáo phận Nam Vang. Tổng cộng là 12 giáo phận. Năm 1925, Tòa Thánh lập Tòa khâm sứ ở Đông Dương, đặt tại Phủ Cam (Huế). Ngày 10 tháng 1 năm 1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc lệnh bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục hiệu tòa Sozopoli, giữ chức Giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Phát Diệm. Ông là vị Giám mục người Việt Nam đầu tiên.

Giáo hội Công giáo giúp phát triển y tế và giáo dục Việt Nam thời kỳ này. Trong số các trường trung học do các sư huynh Dòng La San giảng dạy, nổi bật nhất là Taberd Sài Gòn, Puginier Hà Nội, và Pellerin Huế. Trung học Công giáo duy nhất chuẩn bị cho học sinh thi bằng tú tài Pháp (baccalauréat) là trường Thiên Hựu (Institut de la Providence) ở Huế. Tuy nhiên, trong suốt thời Pháp thuộc không có đại học Công giáo nào ở Việt Nam do chính sách bài giáo sĩ và độc quyền giáo dục bậc cao của thực dân Pháp. Nhu cầu giáo dục của người Công giáo Việt Nam thích hợp với sách lược của Tòa Thánh Vatican đề cao giáo dục hiện đại cho giáo sĩ bản xứ, nhằm đào tạo giới trẻ trong phong trào Công giáo Tiến hành và thúc đẩy vai trò của giáo dân. Hội Xuân Bích, Dòng Đa Minh Pháp, Dòng Chúa Cứu Thế Canada và các linh mục Bỉ thuộc Hội Trợ tá Truyền giáo (Société des Auxiliaires des Missions) đến Đông Dương từ thập niên 1930 góp phần mở rộng mạng lưới giáo dục Công giáo.

Trong giai đoạn này, tại Việt Nam cũng diễn ra một cuộc cải đạo quy mô lớn ở khắp các tỉnh thành, và gây ra nhiều xáo trộn trong dân chúng. Vụ việc sau đây do viên công sứ ở Vinh (Nghệ An) kể lại, trong thư đề ngày 22 tháng 4 năm 1891 gửi cho giám mục Pineau, Đại diện Tòa thánh tại vùng Nam Bắc kỳ: Theo mô tả của viên công sứ Pháp tại Kontum thì Phái bộ có “mọi phương tiện, kể cả và nhất là những phương tiện không lương thiện, để bứng đi một viên Công sứ gây trở ngại”. Ngày tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 khi đó trùng vào ngày lễ kính các đấng tử đạo Việt Nam. Trong chính quyền Việt Nam có những nhân vật Công giáo nổi bật như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng. Người Công giáo Việt Nam chống lại việc thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, và họ trở nên dấn sâu vào phong trào độc lập dân tộc. Chính quyền Việt Nam cử lãnh đạo cấp cao tới dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên đoàn Công giáo tại Phát Diệm. Là người quyết liệt chống Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cố vấn tối cao của chính phủ.

Trong giai đoạn ban đầu này, tiếp xúc giữa Công giáo và cộng sản tại miền Bắc diễn ra trực tiếp và ở cấp cao nhất, còn tại miền Nam, nơi sớm bị Pháp tái chiếm, các cuộc liên lạc này ít chính thức hơn. Phong trào kháng Pháp của người Công giáo ở Nam Bộ cũng diễn ra sôi nổi, nhiều người trong số đó ủng hộ Việt Minh như bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, luật sư Thái Văn Lung, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh.

Nhiều giáo sĩ Công giáo Việt Nam đề cao tinh thần dân tộc, chống thực dân đồng thời cố gắng giữ người Công giáo khỏi bị cuốn vào cuộc chiến giữa thực dân Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu được vũ trang thành khu tự vệ Công giáo. Trong suốt cuối thập niên 1940, khu vực này giữ được sự độc lập khỏi cả thực dân Pháp và Việt Minh.

Trong suốt Chiến tranh Đông Dương, Tòa Thánh Vatican không sẵn lòng ủng hộ thực dân Pháp lôi kéo người Công giáo Việt Nam. Vấn đề là phong trào dân tộc ở Việt Nam lại do Đảng cộng sản lãnh đạo. Vatican cho rằng thức hệ cộng sản với chủ trương nhà nước vô thần muốn loại bỏ các tôn giáo. Tháng 6 năm 1948, Vatican nhận định rằng người cộng sản Việt Nam "từng chút một" bộc lộ bản chất không phải là những người yêu nước mà là một đảng chống tôn giáo sẽ tiến hành việc "bách hại có hệ thống" người Công giáo Việt Nam. Thư chung năm 1952 đề cao lòng yêu mến nền văn hóa dân tộc, và thư chung năm 1953 chỉ ra những nguyên tắc cụ thể về hoạt động thuộc phạm vi quốc gia hay thế tục.

Từ năm 1951, thực dân Pháp kiểm soát về mặt hành chính và quân sự đối với khu Phát Diệm–Bùi Chu, chấm dứt sự tự trị của nơi này. Theo trang VietCatholic ở hải ngoại, các nghiên cứu gần đây cho thấy Tòa Thánh và giới Công giáo Việt Nam không cộng tác với thực dân Pháp như thường được tuyên truyền. Cuộc di cư 1954 này đã thay đổi một cách triệt để tỷ lệ người Công giáo ở miền Bắc và miền Nam. Trước đó, người Công giáo chiếm khoảng 10% dân số ở miền Bắc và chỉ chiếm 5% dân số ở miền Nam; sau năm 1954, các con số này đã đảo ngược. Hệ quả là Công giáo ở Miền Bắc bị xáo trộn, còn Công giáo ở Miền Nam bị thay đổi cấu trúc. Lúc này, giáo phận Cần Thơ được thành lập, tách ra từ giáo phận Nam Vang; giáo phận Nha Trang được thành lập, tách ra từ giáo phận Quy Nhơn.

Năm 1957, giáo hội Việt Nam (Miền Nam) yêu cầu các linh mục Dòng Tên trở lại. Ngày 13 tháng 9 năm 1958 những linh mục dòng Tên nhận trách nhiệm điều khiển Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong lãnh vực văn hóa xã hội ở Miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, họ lập ra cả kênh Truyền hình Đắc Lộ với mục tiêu giáo dục cho nhân dân, thay vì truyền giáo.

Ngày 24 tháng 11 năm 1960, qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam, chính thức thành lập các giáo phận chính tòa, thuộc 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ngày 22 tháng 8 năm 1961, Thánh địa La Vang được tôn phong là Vương cung thánh đường. Một năm sau, ngày 13 tháng 11 năm 1962, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn cũng được Tòa Thánh tôn phong lên hàng Vương cung thánh đường.

Các giám mục Việt Nam cũng đi dự Công đồng Vatican II, các nghị phụ gồm có: Tống giám mục chính tòa Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Huế Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục, Giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền (Giáo phận Cần Thơ), Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ (Giáo phận Long Xuyên), Giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho Giuse Trần Văn Thiện, Giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (sau đó là Giám mục Giáo phận Qui Nhơn), Giám mục Giáo phận Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi và hai giám mục chính tòa ngoại quốc ở Việt Nam là Giám mục Paul Seitz Kim (Giáo phận Kon Tum) và Marcel Piquet Lợi (Giáo phận Nha Trang).

Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tức 291 năm sau (1676-1967), linh mục Aniceto Fernandez - bề trên Tổng quyền Dòng Anh Em Giảng Thuyết tuyên bố là đã tới thời điểm tách dòng ở Việt Nam ra khỏi sự phụ thuộc dòng ở Philippines, để thành lập Tỉnh dòng Anh Em Giảng Thuyết riêng với danh hiệu Tỉnh dòng Nữ vương Các Thánh Tử đạo Việt Nam.

Miền Bắc

Theo tài liệu của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam, sau cuộc di cư 1954, số linh mục còn lại tại miền Bắc chừng 28%, giáo dân chừng 60%, có những giáo phận như Thái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh, Phát Diệm, Hải Phòng... số người Công giáo di cư vào miền Nam khá đông. Theo tài liệu của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, số lượng giáo dân di cư vào miền Nam lên đến 800.000 người, chiếm khoảng 2/3 tổng số giáo dân miền Bắc. Sau khi giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn phải đi Hong Kong chữa bệnh, cả miền Bắc chỉ còn lại hai giám mục Việt Nam là Giuse Maria Trịnh Như Khuê của Hà Nội và Gioan Baotixita Trần Hữu Đức của Vinh. Các hoạt động chủ yếu của người Công giáo miền Bắc là giữ đạo thay vì truyền giáo bởi vì thiếu người lãnh đạo, cộng với chính sách kiềm chế tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các chủng viện, trường học và hầu hết các tu viện Công giáo đều bị nhà nước tịch thu. Một số linh mục và chức sắc của xứ đạo bị bắt, đi tù trong chính sách cải cách ruộng đất (1955-1956). Ngoại trừ Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Thánh Phaolô còn lại ở miền Bắc, các dòng tu khác đều rút lui vào miền Nam. Vì nhu cầu cần có thêm linh mục nên nhiều Giám mục đã phải truyền chức "chui" (lén chính quyền) cho một số người làm linh mục.

Miền Nam

Suốt nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm - một người Công giáo sùng đạo - đã có những chính sách tạo điều kiện cho Giáo hội Công giáo dấn thân phục vụ xã hội cách rộng rãi. Tháng 5 năm 1963 xảy ra biến cố Phật giáo khiến sau đó chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và anh em ông bị ám sát vào ngày 2 tháng 11 cùng năm. Cuối năm 1959, Tòa Thánh cho thành lập Tòa Khâm sứ mới tại miền Nam Việt Nam, đặt tại thủ đô Sài Gòn. Giáo hội điều hành nhiều cơ sở giáo dục như Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Minh Đức, Trường Trung học Nguyễn Bá Tòng, Trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, hệ thống các trường của Dòng La San như Trường Trung học La San Taberd Sài Gòn và Trường d'Adran Đà Lạt. Ngày 23 tháng 4 năm 1975, Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận của Giáo phận Nha Trang được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó của Tổng giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ông là cháu ruột của cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Từ 1975 đến nay

;Từ năm 1975-1990

Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam) kiểm soát được miền Nam Việt Nam từ sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Sau biến cố, một số Giám mục Công giáo, nổi bật là hai Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình và Tổng giáo phận Huế Philípphê Nguyễn Kim Điền kêu gọi giáo dân bình tĩnh và chấp nhận chế độ chính trị mới. Theo Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng, có 130.000 tín đồ Công giáo đã di tản khỏi Việt Nam sau biến cố. Ít tháng sau biến cố năm 1975, chính quyền yêu cầu Tổng giám mục, Khâm sứ Tòa Thánh Henri Lemaître phải rời khỏi Việt Nam, và đưa tân Tổng giám mục phó Sài Gòn Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đi quản thúc tại Nha Trang. Các trường học, bệnh viện Công giáo phải đóng cửa, các sinh hoạt tôn giáo trở gặp khó khăn: việc truyền chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển các giáo sĩ, kiểm soát phụng tự Công giáo. Chính quyền và giáo hội có nhiều xung đột công khai: vụ án nhà thờ Vinh Sơn (1976), vụ việc Dòng Đồng Công, vụ Đắc Lộ (1981),... Đối với các giáo sĩ, cũng có những xung đột: hai bài phát biểu năm 1977 của Tổng giám mục Điền, khoảng 200-300 linh mục phải đi học tập cải tạo. Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt, cơ sở đào tạo chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam (tại miền Nam) bị chiếm dụng.

Trong thập niên 1980, một số giám mục phản đối công khai việc thành lập Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam. Kể từ năm 1986, khi các chủng viện mở lại, việc tuyển sinh, ban đào tạo và nội dung giảng dạy đều bị kiểm soát. Hội đồng Giám mục Việt Nam được cải tổ vào năm 1980, trở thành hội đồng giám mục toàn quốc, và tiếng nói chính thức của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức phong thánh cho 117 vị tu sĩ và giáo dân Công giáo Việt Nam. Chính quyền Việt Nam phản đối, cho rằng vụ việc có động cơ chính trị, trong khi quan điểm của Giáo hội Công giáo động cơ tuyên thánh thuần túy tôn giáo. Các giám mục Việt Nam, trong thập niên 1980 vẫn được tham dự các Thượng Hội đồng Giám mục, và các chuyến viếng thăm Ad Limina.

;Từ năm 1990-2010 Các thương thuyết giữa phái đoàn Tòa Thánh và chính quyền Việt Nam, có qui cách gần như là thường niên từ năm 1990 đã giúp Giáo hội Công giáo có nhiều giám mục mới được cả hai bên công nhận. Vụ việc bổ nhiệm tân tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh (đã đổi tên từ Sài Gòn năm 1976) gặp nhiều khó khăn, trong khi các nhân sự giải quyết tình trạng thiếu giám mục cho các giáo phận dần dần được giải quyết qua thương thảo, tuy còn khó khăn ở Tổng giáo phận Hà Nội (1990, 2003, 2010). Giáo hội và Nhà nước cũng còn nhiều vấn đề còn tồn tại, đặc biệt là tranh chấp tài sản Công giáo cũ, dẫn đến xung đột. Tranh chấp tại khu đất 42 Nhà Chung dẫn đến việc hai bên thành lập Nhóm làm việc chung chính thức giữa Giáo hội và Nhà nước, trong khi Tổng giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt rời khỏi Hà Nội.

Nhân dịp kỷ niệm 350 năm thành lập hai Địa phận Tông toà Đàng Ngoài, Đàng Trong và 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Năm Thánh 2010 (từ 23 tháng 11 năm 2009 tới 6 tháng 1 năm 2011) của riêng giáo đoàn Việt Nam đã diễn ra.

;Từ năm 2010-nay Giáo hội trong giai đoạn này vẫn còn nhiều tranh chấp với Nhà nước, với một số xung đột căng thẳng trong vụ việc Formosa tại Việt Nam. Trong đại dich COVID-19, các giáo phận Công giáo đã hợp tác với chính quyền các cấp trong việc phòng tránh và hỗ trợ y tế cũng như vật tư để chữa trị các bệnh nhân.

Theo thống kê được trình báo trong chuyến thăm Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam thì cho đến đầu năm 2018, Công giáo tại Việt Nam có 7 triệu giáo dân, với 4.000 linh mục, 4.500 giáo xứ, 22.000 tu sĩ với hơn 240 dòng tu, hơn 2400 đại chủng sinh. Giáo trình lớp Hội nhập Văn hóa Văn hóa Công giáo Việt Nam cho biết có khoảng 7 triệu người Công giáo, chiếm 7% dân số, 5.000 linh mục, hơn 5.000 đại chủng sinh và tu sinh. Theo thống kê đầu năm 2019 của Uỷ ban Tu sĩ thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, tại Việt Nam hiện diện 307 dòng tu, tu đoàn, tu hội và hiệp hội với tổng số 33.087 tu sĩ, gồm 28.099 nữ tu và 4.988 nam tu sĩ bao gồm 1.670 linh mục dòng.

Theo Uỷ hội Tự Do Tôn giáo Hoa Kỳ xuất bản tháng 9 năm 2024, trong tài liệu đào tạo dành cho các quan chức Ban Tôn giáo Chính phủ xuất bản năm 2021, Vatican đã chấp thuận yêu cầu việc tuyển chọn giám mục và các giáo sĩ cấp cao phải được chính phủ phê chuẩn. Năm 2023, theo kết quả thương thảo giữa Việt Nam và Tòa Thánh, giáo sĩ đại diện Tòa Thánh từ thời điểm này mang quy cách "thường trú", được gọi là "Đại diện Tòa Thánh [thường trú]" tại Việt Nam. Tính đến năm 2025, Việt Nam có 3 Tổng giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn và 24 giáo phận. Có cả thảy trên một trăm ba mươi vị được tấn phong giám mục, trong đó có 6 vị nhận tước Hồng y.

Các bổ nhiệm quan trọng của Tòa Thánh

phải|Logo Năm Thánh 2010 Cuối tháng 5 năm 1976, Giáo hoàng Phaolô VI đã nâng Tổng Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê lên chức Hồng y đẳng linh mục, trở thành vị hồng y đầu tiên của Việt Nam. Sau khi Hồng y Trịnh Như Khuê qua đời, Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong người kế nhiệm của ông là Tổng Giám mục Giuse Maria Trịnh Văn Căn tước vị hồng y vào tháng 5 năm 1979. Năm 1994, tân Tổng giám mục Hà Nội Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng cũng được vinh thăng tước Hồng y. Trong hai công nghị liên tiếp vào các năm 2001 và 2003, Giáo hoàng Gioan Phaolô II lần lượt phong tước Hồng y cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận Chủ tịch Thánh bộ Công lý và Hòa Bình của Vatican, và Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn. Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn là hồng y duy nhất của Việt Nam được phong dưới thời Giáo hoàng Phanxicô, vào năm 2015.

Năm 2011, Giáo hoàng Biển Đức XVI bổ nhiệm Tổng giám mục Leopoldo Girelli làm Đại diện không thường trực tại Việt Nam, được kế nhiệm bởi Tổng giáo mục Marek Zalewski từ tháng 5 năm 2018. Theo Ủy ban Bác ái Xã hội, việc chọn lựa giám mục ở Việt Nam sau 1975 chịu những tác động như sự can thiệp của chính quyền và áp lực phe nhóm trong giáo phận. Tháng 12 năm 2023, Tòa Thánh chính thức bổ nhiệm Tổng giám mục Zalewski làm Đại diện Thường trú, sau thương thảo của nhóm làm việc chung Tòa Thánh và Việt Nam.

Tổ chức

right|Bản đồ các giáo phận Công giáo tại Việt Nam

Từ hai Hạt Đại diện Tông Tòa đầu tiên được thành lập năm 1659, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam có 7 Địa phận (Hạt Đại diện Tông Tòa) vào năm 1850, 17 địa phận vào năm 1957. Các địa phận (nay gọi là Hạt Đại diện Tông Tòa) này được nâng cấp thành giáo phận vào cuối năm 1960. Hiện nay, Giáo hôi Công giáo tại Việt Nam được phân chia thành 3 giáo tỉnh, gồm 3 tổng giáo phận và 24 giáo phận:

  • Giáo tỉnh Hà Nội: gồm một tổng giáo phận và 10 giáo phận.
  • Giáo tỉnh Huế: gồm một tổng giáo phận và 5 giáo phận.
  • Giáo tỉnh Sài Gòn: gồm một tổng giáo phận và 9 giáo phận.

Năm 2013, theo Giám mục Gioan Maria Vũ Tất, theo kế hoạch sẽ có thêm các giáo phận mới là Hà Tuyên, Pleiku và Lào Cai.

Đứng đầu mỗi tổng giáo phận hay giáo phận là một vị Tổng giám mục hay Giám mục chính tòa do Tòa Thánh bổ nhiệm, với sự đồng thuận của Chính phủ Việt Nam. Trong trường hợp một tổng giáo phận hay giáo phận bị trống tòa, Tòa Thánh sẽ bổ nhiệm một giáo sĩ làm Giám quản Tông Tòa hoặc linh mục đoàn của giáo phận ấy bầu ra một vị linh mục giám quản. Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập năm 1960: tất cả các địa phận tông tòa được nâng lên thành giáo phận chính tòa. Hội đồng Giám mục Việt Nam là tổ chức, cơ cấu duy nhất của các vị Giám mục tại Việt Nam, với mục đích hội nghị, và đưa ra đường hướng chung cho cả Giáo hội tại Việt Nam.

Công giáo Việt Nam hải ngoại

Trong dòng người thuyền nhân rời Việt Nam có đông đảo người Công giáo. Ngày nay, với hơn nửa triệu người ở rải rác khắp nơi trên thế giới, Cộng đồng Công giáo Việt Nam ở hải ngoại có nhiều hình thức sinh hoạt khác nhau. Có nơi thì họ tạo thành giáo xứ Việt Nam do một linh mục Việt Nam làm quản xứ (quản nhiệm, tuyên uý); có nơi thì lập giáo đoàn Việt Nam trong một giáo xứ địa phương do linh mục Việt Nam làm phó xứ phụ trách với tính cách quản nhiệm (Hoa Kỳ) hay tuyên uý (Úc); có nơi chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé, chưa có người phụ trách, thỉnh thoảng mới tụ họp nhau dâng thánh lễ bằng tiếng Việt. Đặc biệt, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc đã tổ chức Ngày Thánh Mẫu hằng năm, và được coi là một trong những dịp quy tụ người Việt lớn nhất hải ngoại. Tính đến tháng 6 năm 2015, có từ 9 vị xuất thân từ Việt Nam được chọn làm Giám mục phục vụ tại hải ngoại, tại Hoa Kỳ, Australia, Canada, Lào.

Đóng góp văn hóa và trí thức của Công giáo Việt Nam

Công giáo Việt Nam diễn ra sôi nổi hoạt động trí thức và văn học ngay từ thế kỷ 17. Từ thời Lê trung hưng, Công giáo đã hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam và người Công giáo đóng vai trò quan trọng là lực lượng xã hội đầu tiên kết nối Việt Nam với văn minh phương Tây, tại cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đóng góp này càng rõ nét hơn từ nửa cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ rồi tới Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tầng lớp trí thức Công giáo là một bộ phận hình thành giới trí thức Tây học nói chung; các giá trị văn hóa, lối sống Công giáo làm đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Nhiều xứ, họ đạo trở thành một đơn vị hạt nhân cho việc hiện đại hóa cả về kinh tế, kỹ thuật và quan hệ xã hội.

Chữ viết và ngôn ngữ học

[[Kinh Kính Mừng bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, cuối thế kỉ 18.]] Khó khăn đầu tiên đối với các thừa sai châu Âu khi đến Việt Nam là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự. Bởi vậy để học tiếng Việt dễ dàng hơn, họ đã dùng bộ chữ cái Latinh bổ sung thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt – chữ này về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Hệ chữ này là thành quả công sức tập thể của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha và Ý cùng với những người Việt đã giúp họ học tiếng Việt và người Nhật với vai trò phiên dịch ban đầu.

Công lao có thể kể đến các linh mục Francesco Buzomi, Francisco de Pina, Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa v.v. Đóng góp quan trọng trong việc điển chế hệ chữ này thời kỳ đầu thuộc về linh mục Alexandre de Rhodes xứ Avinhon, người đã dày công sưu tập, bổ sung biên soạn và năm 1651 đã cho xuất bản ở Rôma cuốn Từ điển Việt–Bồ–La cùng với ngữ pháp tiếng Việt. So với chữ Hán và chữ Nôm, chữ Quốc ngữ có ưu điểm lớn là rất dễ học. Nó có khả năng biểu thị chính xác bất kỳ âm thanh nào của tiếng Việt, cấu tạo lại đơn giản, dễ học, dễ nhớ, người Việt chỉ cần học ba tháng là đã có thể sử dụng được. Từ cuối thế kỉ 19, chữ Quốc ngữ dần được phổ biến, có vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoá Việt Nam thời hiện đại.

Giáo hội Công giáo cũng là định chế bảo tồn và phát huy chữ Nôm. Khi các nhà truyền giáo đến Việt Nam, Hán–Nôm là hai hệ chữ viết đang được sử dụng. Tuy chữ Nôm khó học và chưa ổn định nhưng các giáo sĩ vẫn dùng chữ Nôm truyền bá Phúc Âm để tiếp xúc được với quần chúng, lại coi trọng và làm phong phú hệ chữ này chứ không xem nó là "mách qué" như những người chỉ độc tôn chữ Hán. Các sách vở chữ Nôm được đọc trong thánh đường, trong họ đạo và gia đình hằng ngày. Cho tới cuối thế kỉ 19, chữ Nôm là hệ chữ viết chính trong văn hiến Công giáo Việt Nam. Giáo hội Công giáo vẫn còn xuất bản sách vở chữ Nôm, và cho ra đời bia ký, đại tự Hán Nôm cho đến giữa thế kỷ 20. Giáo sĩ Girolamo Maiorica đã để lại một lượng đồ sộ trước tác chữ Nôm, đây là kho tư liệu vô giá về ngôn ngữ học tiếng Việt. Kinh sách Kitô giáo bằng chữ Hán cũng được coi trọng bởi đây là ngôn ngữ gắn liền với học thức và sự linh thiêng. Kinh nguyện giỗ Phục dĩ chí tôn của thầy giảng Phan-chi-cô là một kiệt tác Hán văn. Các thư tịch Hán Nôm Công giáo khá phong phú về thể loại và hình thức, tuy nhiều trong số đó hiện nay đã thất truyền. Tự vị Taberd là một tài liệu quan trọng trong lịch sử nền quốc học Việt Nam.

Kỹ thuật in ấn và báo chí

Cùng với việc truyền bá đạo Công giáo, các giáo sĩ đã du nhập vào Việt Nam rất nhiều thành tựu của kỹ thuật hiện đại phương Tây. Trong đó, một ngành công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của văn hoá Việt Nam được các giáo sĩ thừa sai đưa vào nước này khá sớm: đó là ngành in ấn. Sự du nhập công nghệ in hiện đại đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn hoá Việt Nam bản địa những năm đầu thế kỷ XIX, đặc biệt trên lĩnh vực báo chí. Một số giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật dệt vải mịn và khổ rộng bằng khung dệt mang từ nước ngoài vào để sản xuất tại Dòng Mến Thánh Giá Di Loan (Quảng Trị) và sản phẩm đã được trưng bày tại Hội chợ Triển lãm Paris năm 1867. Người ta cũng ghi nhận chính các giáo sĩ đã đưa giống cừu vào Phan Rang để nuôi và linh mục Henry cũng là người đầu tiên đưa cây phi lao về trồng ở xứ Hà Úc (Huế).

Đời sống văn hóa

Rước kiệu Công giáo theo lối truyền thống Việt Nam Công giáo hội nhập sâu sắc vào văn hóa Việt Nam với những biểu hiện phong phú như đọc kinh, vãn hát, múa dâng hoa, nghi thức tế, diễn xướng Tuần Thánh, lễ hội, rước kiệu v.v. Nếp sống của người Công giáo Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nếp sống cổ truyền Việt Nam kết hợp hài hòa với văn hóa phương Tây. Văn hóa làng Công giáo độc đáo với việc đan xen những lễ nghi, tục lệ của làng Việt nói chung với nghi lễ của Công giáo. Giữ gìn luân thường đạo lý, bảo tồn phong hóa là một nội dung quan trọng trong đời sống đạo phong phú của người Công giáo Việt Nam.

Quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

Quan hệ giữa Tòa thánh và chính quyền

Quan hệ Tòa Thánh và chính quyền Việt Nam bắt đầu được nối lại bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp từ năm 1990, sau khi Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa. Năm 1994, Campuchia và Tòa Thánh thiết lập quan hệ ngoại giao và vị Sứ thần tại Campuchia vẫn đảm nhận liên lạc với Việt Nam.

Ngày 5 tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân phước. Chính quyền Việt Nam không phản ứng như đợt phong trước, một biểu hiện sự ấm dần lên trong quan hệ giữa Giáo hội và chính quyền. Có ý kiến cho rằng chính quyền Việt Nam không tìm cách loại trừ mà muốn "quản lý" Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.

Tuy trong thời gian gần đây, một số người công giáo tại Việt Nam tham gia các lực lượng đối lập với chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nên bị chính quyền theo dõi hoạt động, có trường hợp bị quản thúc hoặc bắt giam, nhưng chính quyền Việt Nam cũng cố gắng xây dựng một số động thái làm "tan băng" trong quan hệ với Tòa Thánh.

Đầu năm 2007, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Vatican, hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI và Thủ tướng Vatican, Hồng y Tarcisio Bertone. Đây là vị thủ tướng đầu tiên của Việt Nam đến Vatican hội kiến Giáo hoàng, kể từ sau năm 1975. Giáo hoàng Biển Đức XVI đã ra sắc lệnh tôn phong hai nhà thờ ở Việt Nam lên hàng vương cung thánh đường là Phú Nhai (ngày 12 tháng 8 năm 2008) và Sở Kiện (ngày 24 tháng 6 năm 2010). Như vậy, Việt Nam hiện có 4 Vương cung thánh đường.

Tháng 2 năm 2009, phái đoàn của Tòa Thánh do Thứ trưởng ngoại giao - Đức ông Pietro Parolin dẫn đầu - đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội, cả hai bên đã quyết định thành lập các "Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican" để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại giao. Ngày 11 tháng 12 năm 2009, nhân chuyến công du Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Biển Đức XVI và Hồng y Tarcisio Bertone. Ông là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của chính phủ Việt Nam hội kiến Giáo hoàng.

Ngày 22 tháng 1 năm 2013, ông Nguyễn Phú Trọng - tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến thăm Vatican và có cuộc hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI. Giới quan sát nhận định, đây là điều ít khi xảy ra, vì Giáo hoàng thông thường chỉ tiếp các nguyên thủ quốc gia, các thủ tướng hoặc các lãnh đạo chính trị tiếng tăm thế giới, ít khi tiếp một lãnh đạo chính đảng.

Ngày 18 tháng 10 năm 2014, ông Nguyễn Tấn Dũng - thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam đến thăm Vatican và có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Phanxicô.

Nhà nước can thiệp vào sinh hoạt nội bộ tôn giáo

Khi Tòa Thánh muốn bổ nhiệm một người làm giám mục, họ phải gửi danh sách ứng viên đến Chính phủ Việt Nam. Chỉ khi chính phủ đồng ý thì người đó mới được công nhận là giám mục ở Việt Nam. Trong nhiều năm, các nhà ngoại giao hàng đầu của Vatican đến thăm Việt Nam mỗi năm để thảo luận về hoạt động của Giáo hội Công giáo và cũng để bàn bạc với giới chức Việt Nam về việc bổ nhiệm giám mục. Mặc dù Tòa Thánh luôn nhấn mạnh rằng việc bổ nhiệm giám mục phải xin phép chính phủ vốn không phải là thông lệ của họ, nhưng họ có thể tạm thời chấp nhận trong bối cảnh quan hệ hai bên đang tiến triển.

Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam ủng hộ và thành lập Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam từ các Hội Công giáo Cứu quốc và Công giáo Kháng chiến trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, như một biện pháp đoàn kết những người công giáo yêu nước. Ủy ban Đoàn kết Công giáo độc lập với Hội đồng Giám mục, và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Quan điểm của giới Công giáo về các vấn đề xã hội, chính trị

Tháng 5 năm 2012, Ủy ban Công lý và Hòa bình trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra bản thông cáo "Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay". Qua lá thư này, họ chất vấn chính quyền Việt Nam về việc làm sao có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật khi mà tư tưởng bị đóng khung trong một chủ thuyết là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đề xuất nền tảng chủ thuyết để tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc chứ không phải bất kỳ một hệ ý thức nào khác. Thư này cũng cho rằng Hiến pháp Việt Nam không nên và không thể khẳng định sự lãnh đạo mặc nhiên, không thông qua bầu cử của bất kỳ đảng phái chính trị nào. Thư góp ý đề xuất nhà nước Việt Nam thực hiện mô hình quản lý theo kiểu tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp; phân biệt rõ vai trò của đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Nhìn chung, thư góp ý sửa đổi Hiến pháp này được sự ủng hộ của nhiều tín hữu và giới bất đồng chính kiến. Có g

👁️ 8 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
**Cơ đốc giáo tại Việt Nam** hiện gồm có Giáo hội Công giáo và các Hội thánh Tin Lành. Kitô giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16 thông qua các thừa sai
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
thumb|Một nhà thờ Hồi giáo ở [[thành phố Hồ Chí Minh]] Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, cộng đồng Hồi giáo chỉ chiếm một tỷ lệ thấp so
**Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam Cộng hòa** là danh sách đại sứ quán, tổng lãnh sự quán và lãnh sự quán từ khắp nơi trên thế giới tại cựu
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Lịch sử Công giáo Việt Nam (1990–2005)** là một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm, tiếp sau giai đoạn 15 năm khó khăn trước đó của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam,
**Các thánh tử đạo Việt Nam** là danh sách những tín hữu Công giáo người Việt hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên thánh với lý do tử đạo. Trong
**Tòa Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam** (hay còn gọi là **Tòa Khâm sứ Vatican tại Việt Nam**) là cơ quan đại diện của Tòa Thánh tại Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn
**Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam** nói về quá trình hình thành và phát triển của dòng nhạc Thánh ca Công giáo tại Việt Nam. ## Lịch sử Khi nói đến bài thánh
Tự do tín ngưỡng và tôn giáo là quyền được thực hiện các hành vi tôn giáo, theo đuổi một tín ngưỡng của một cá nhân một cách tự do. Nó được nhiều người cho
**Chính thống giáo** hiện tại không có trong danh mục tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam do Ban Tôn giáo Chính phủ công bố. Tuy nhiên, có thông tin rằng Giáo hội Chính thống
**Caritas Việt Nam** là một tổ chức bác ái, từ thiện của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam do Ủy ban Bác ái Xã hội (The Commission on Charity and Social Actions - **COCASA**),
**Dòng Thánh Phaolô thành Chartres tại Việt Nam** (hoặc đơn giản là: **Dòng Thánh Phaolô**) hiện nay bao gồm bốn tỉnh dòng: Hà Nội Sài Gòn, Đà Nẵng và Mỹ Tho. Hiện diện tại Việt
Dưới đây là **danh sách 109 giám mục Công giáo ngoại quốc** từng quản nhiệm các "giáo phận" tại Việt Nam được xếp theo thời gian nhiệm chức. Tất cả đều là giám mục hiệu
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
thumb|Đại hội đại biểu Cộng đồng tôn giáo Baha'i tại Đà Nẵng năm 2009 **Tôn giáo Bahá'í** được du nhập lần đầu tiên vào Việt Nam trong những năm 1920, sau khi Abdu'l-Baha đặt tên
**Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam Cộng hòa** (), thường gọi là **Đại sứ quán Pháp tại Nam Việt Nam**, là cơ quan đại diện ngoại giao của Pháp tại thủ đô Sài Gòn
Phân vùng bão và áp thấp nhiệt đới tại Việt Nam theo Quyết định 2901 năm 2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam **Việt Nam** là một quốc gia nằm ở khu
Phong trào luyện tập **Pháp Luân Công** ở Việt Nam xuất hiện khoảng 7 hay 8 năm sau khi phong trào này xuất hiện lần đầu tiên tại Trung Quốc vào năm 1992. Đến năm
**Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Việt Nam** (, _Trú Việt Nam Đài Bắc Kinh tế Văn hóa Biện sự xứ_) là văn phòng đại diện của Đài Loan tại Việt
**Tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam** bao gồm những tổ chức phi chính phủ (NGO) ở trong nước và nước ngoài. Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ với
**Tổng Công ty Thép Việt Nam - CTCP** (tên tiếng Anh: **Viet Nam Steel Corporation**, viết tắt: **VNSTEEL**) là một công ty cổ phần được hình thành từ sự hợp nhất của 2 Tổng Công
Những **người Do Thái** đầu tiên thăm Việt Nam được cho trong thời Pháp thuộc vào cuối thế kỷ 19. Trong thời Chiến tranh Việt Nam, các cộng đồng Do Thái tạm được xây dựng
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Giáo dục Việt Nam** dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay) là một sự tiếp nối của giáo dục thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Hanoi_Temple_of_Literature.jpg|nhỏ|Quần thể di tích [[Văn Miếu – Quốc Tử Giám tại Hà Nội, bao gồm cả Quốc Tử Giám (國子監), trường đại học đầu tiên của Việt Nam]] Bài viết liệt kê danh sách các
**Internet tại Việt Nam** được coi như chính thức bắt đầu từ cuối năm 1997. Ngày 19 tháng 11 năm 1997 là ngày đầu Việt Nam được hòa vào mạng Internet toàn cầu. ## Lịch
**Mại dâm ở Việt Nam** là một chủ đề về hoạt động mại dâm tại Việt Nam, cũng như những quy định của pháp luật về hành vi mua bán dâm, chủ chứa, môi giới
nhỏ|phải|Khẩu hiệu phản đối Trung Quốc ở Vũng Tàu **Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc lắp đặt giàn khoan thăm dò dầu khí HD-981** đã diễn ra trong tháng 5 năm 2014 (gần
Việt Nam đã nhận biết các dấu hiệu đại dịch COVID-19 và có các biện pháp kiểm soát từ khá sớm. Đầu tháng 1 năm 2020, trên một số tờ báo lớn tại Việt nam
Vào ngày 23 tháng 1 năm 2020, trường hợp đầu tiên mắc COVID-19 do virus SARS-CoV-2 gây ra được xác nhận tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Xã hội, kinh tế bị tác
Đại dịch COVID-19 tại Việt Nam bùng phát đã tác động nhất định đến xã hội Việt Nam. ## Dòng thời gian ### 2020 #### Giáo dục ##### Công lập Một số trường đã quyết
**Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát** còn được gọi là **Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát** (tiếng Anh: Universal Periodic Review), viết tắt là UPR, là một cơ chế của Hội đồng Nhân
**Dân chủ tại Việt Nam** đề cập đến tình hình dân chủ và các vấn đề liên quan đến dân chủ tại Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Lễ khai giảng ngày 15 tháng 11 năm [[1945 ở Trường Đại học Quốc gia Việt Nam, cơ sở giáo dục đại học đầu tiên của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] **Giáo
**Học tập cải tạo tại Việt Nam** là tên gọi hình thức giam giữ mà chính quyền Việt Nam thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại
**Bão Yagi**, tại Việt Nam là **bão số 3 năm 2024**, hình thành từ một áp thấp nhiệt đới ở ngoài khơi Philippines, đi vào biển Đông và nhanh chóng phát triển lên cấp siêu
Chữ Quốc ngữ – tức bảng chữ cái tiếng Việt hiện đại – vốn được các giáo sĩ Dòng Jesus người Bồ Đào Nha và Ý sáng tạo nên, và được linh mục Alexandre de
Một tòa nhà của [[Viện Đại học Huế (nay là Đại học Huế), ở số 3 đường Lê Lợi, thành phố Huế.]] Các chính thể độc lập ở Việt Nam từ thế kỷ 20 nói
trái|nhỏ|Biểu trưng Phong trào Thiếu nhi Thánh thể Việt Nam **Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Việt Nam** là một phong trào Công giáo tiến hành theo được thành lập theo mô hình của Phong
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, đã từng xảy ra không ít các bê bối. Dưới đây là danh sách những bê bối nổi bật, được liệt kê theo năm. ## Năm 2008 ###
Đây là dòng thời gian các sự kiện chính trong đại dịch COVID-19 gây ra bởi SARS-CoV-2 tại Việt Nam năm 2020. ## Thống kê _Số liệu cuối ngày 31 tháng 12 năm 2020_
Tại Việt Nam, **Giáo sư** (tiếng Anh: Professor) là một học hàm, chức danh hoặc chức vụ khoa học dành cho các cán bộ giảng dạy cao cấp ở các bộ môn thuộc trường đại