✨Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993
Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993 là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng 5 năm 1993. Đây được xem là sự kiện biểu tình có quy mô lớn nhất tại Việt Nam sau 1975, với tổng cộng hàng chục nghìn tín đồ Phật giáo lẫn dân thường tham gia suốt 5 giờ đồng hồ liên tục nhằm yêu cầu chính quyền thả giam Hòa thượng Thích Trí Tựu – trụ trì chùa Thiên Mụ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN).
Cuộc biểu tình là một phần trong loạt xung đột giữa GHPGVNTN với Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) thời hậu chiến. Là một tổ chức tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng tại miền Nam và miền Trung Việt Nam, giáo hội cùng các nhà sư đã liên tục chịu sự kìm kẹp và đòi nắm quyền kiểm soát từ giới cầm quyền trong nước. Năm 1981, sự kiện thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) như là tổ chức Phật giáo duy nhất tại Việt Nam đánh dấu việc Giáo hội Phật giáo Thống nhất bị ngầm xem như một tổ chức bất hợp pháp, dẫn đến những vụ bắt bớ và giam giữ hàng ngũ lãnh đạo trong tổ chức. Cái chết của Tăng thống thứ tư GHPGVNTN Thích Đôn Hậu đã trở thành một trong những phông nền chính dẫn đến cuộc biểu tình, đáng chú ý là khi di chúc của ông quyết định truyền lại chức vụ cho Thích Huyền Quang – một nhân vật bất đồng chính kiến lâu năm với chính quyền.
Vào 9:00 sáng ngày 21 tháng 5 năm 1993 (UTC+07:00), một cư sĩ nam đã tự thiêu vì đạo tại chùa Thiên Mụ, ngay cạnh mộ phần Thích Đôn Hậu nhân ngày giỗ đầu của ông. Tuy nhiên, vụ tự thiêu bị chính quyền che giấu, bác bỏ ông là cư sĩ; đồng thời ra lệnh triệu tập đối với trụ trì chùa Thích Trí Tựu sáng ngày 24 tháng 5. Phản đối thái độ mập mờ từ phía các quan chức địa phương, Thích Trí Tựu quyết định tuyệt thực trước Uỷ ban nhân dân nhưng bị công an đánh đập lôi vào trong. Ngay sau đó, tổng cộng 20 nhà sư từ chùa Thiên Mụ đã ra tọa kháng trên ngã tư đường Lê Lợi để yêu cầu thả thầy mình, thu hút hàng chục nghìn người dồn lại dọc tuyến đường trung tâm thành phố theo dõi các nhà sư, làm tắc nghẽn giao thông bất chấp lệnh giải tán của cảnh sát.
Sau sự kiện, 6 nhà sư bao gồm Thích Trí Tựu đã bị bắt giữ; ít nhất 50 người khác bị bắt vì liên quan tới cuộc đối đầu. Chính quyền cũng tổ chức một chiến dịch truyền thông suốt nhiều tháng nhằm hạ bệ danh tiếng các nhà sư với người dân trong nước lẫn truyền thông quốc tế. Sự biến tại Huế năm 1993 đã được phía quân đội Việt Nam nhận định "gây ra nguy cơ mất nước"; khiến Bộ Chính trị ĐCSVN phải ra chỉ thị cho quân đội trực tiếp tham gia vào kiểm soát các tôn giáo nói chung tại Việt Nam. Vụ biểu tình cũng khiến căng thẳng tôn giáo giữa GHPGVNTN với chính quyền tăng cao giai đoạn 1993–1996, với hàng loạt phong trào biểu tình, tự thiêu nổ ra tại nhiều nơi trên cả nước. Hành động của chính quyền Việt Nam trước vụ biểu tình đã vấp phải làn sóng phản đối từ hàng loạt các tổ chức nhân quyền quốc tế; đặc biệt là phản ứng tiêu cực từ chính phủ Hoa Kỳ, trong bối cảnh nước này đang xem xét việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Bối cảnh
Nỗ lực kiểm soát Phật giáo miền Nam và Giáo hội Phật giáo Thống nhất sau 1975
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một tổ chức tôn giáo ra đời vào năm 1964, trên cơ sở hợp nhất các hội đoàn, tông phái miền Nam và miền Trung Việt Nam về một mối sau Biến cố Phật giáo 1963. Từ năm 1966, những mâu thuẫn trong đường lối hoạt động, đặc biệt là về vấn đề tranh đấu hòa bình, đã tạo ra bất đồng quan điểm giữa các lãnh đạo và dẫn đến cơ cấu hội phân thành hai khối: khối Ấn Quang (phái cấp tiến) và khối Việt Nam Quốc Tự (phái bảo thủ). Cho đến năm 1973, khối Ấn Quang đã gần như nắm toàn bộ quyền lực Viện Hóa đạo GHPGVNTN với một lập trường có lợi cho MTGPVN trong việc yêu cầu Mỹ rút quân khỏi Chiến tranh Việt Nam.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) bắt đầu áp dụng các chính sách kiểm soát tôn giáo ở miền Nam, bao gồm cả GHPGVNTN. Từ đây, tổ chức đã có một lịch sử mâu thuẫn kéo dài với chính quyền Việt Nam. Điều này là do chính quyền muốn hoàn toàn chi phối GHPGVNTN, trong khi các nhà sư muốn độc lập quản lý giáo hội. Sự tự do hoạt động của những tổ chức, phong trào tại miền Nam nói chung cũng là một vấn đề lớn với giới cầm quyền, nghi ngờ họ có thể liên quan đến tình báo Mỹ (CIA). Theo đó, khối Việt Nam Quốc Tự thân Việt Nam Cộng hòa đã bị dẹp bỏ khỏi giáo hội với việc người đứng đầu Thích Tâm Châu tị nạn khỏi Việt Nam. Dù ghi công với cách mạng nhưng khối Ấn Quang cũng không hề được chính quyền mới chiếu cố; ngược lại, khối Ấn Quang đã trở thành đối tượng bị nhắm đến thanh trừng.
Từ khi thống nhất miền Nam, chính quyền đã đưa ra nhiều quyết sách ngăn cản sự phát triển của Phật giáo tại đây, bao gồm tịch thu ruộng đất các chùa và cấm người dân đi cúng dường; không cho phép nhà sư mặc áo tràng ra ngoài khuôn viên chùa; tổ chức các cuộc họp công dân vào giờ đi chùa; buộc người mới xuất gia phải hoàn tục về gia đình; và nhất cử nhất động của nhà sư đều bị theo dõi chặt chẽ. Nhiều địa phương cũng yêu cầu nhà sư phải treo hình ảnh Hồ Chí Minh trên bàn thờ, cấm treo cờ Phật giáo và cưỡng chế các cơ sở Phật giáo làm trụ sở quân sự, cơ quan nhà nước hay thành chuồng lợn. trong khi số nam tu sĩ trẻ khác phải đi nghĩa vụ quân sự trong chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 1977, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) phát đi thông báo yêu cầu Phật tử địa phương chống lại GHPGVNTN khối Ấn Quang, với lời cáo buộc nhóm người này có "mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cộng sản" và "âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước". Trong thông báo cũng kèm theo tuyên bố sẽ thẳng tay đàn áp. Ngay sau đó, 6 nhà sư trong khối, Trong một tuyên bố khác của sư Thích Giác Đức, xuyên suốt giai đoạn từ giữa thập niên 1970 đến 1995 đã có hơn 400 tu sĩ Phật giáo bị bắt giữ không thông qua xét xử và 50 trong số đó được xác nhận qua đời trong tù.
Phản kháng với chính quyền không chỉ diễn ra ở giới lãnh đạo cao tầng GHPGVNTN mà còn ở cả các nhà sư khắp miền Nam Việt Nam. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1975, trụ trì Thiền viện Dược Sư Thích Huệ Hiền cùng 11 tăng ni khác đã tổ chức tự thiêu tập thể tại một địa điểm cách Cần Thơ 30 km hướng về tỉnh Sóc Trăng. Khác với phản ứng về vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, vụ tự thiêu tại một cơ sở của GHPGVNTN nhanh chóng bị chính quyền mới ỉm đi; chùa Dược Sư bị tịch thu cùng thi thể của những người đã chết. Trong lời thư tuyệt mệnh để lại, nguyên do cho cuộc tự sát tập thể này là nhằm yêu cầu chính phủ cách mạng "tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức". Thống kê của GHPGVNTN giai đoạn 1976 đến 1977 cũng cho biết có 14 vụ tự thiêu đã xảy ra ở ba tỉnh Cần Thơ, Quảng Ngãi và Khánh Hòa để phản đối việc bắt giữ giáo phẩm cao cấp và trung cấp trong giáo hội. Ban vận động ra đời theo đề án Thống nhất Phật giáo do chính quyền soạn sẵn từ trước, nhằm thống nhất ba tổ chức Phật giáo lớn nhất ở Việt Nam – đương thời là Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam ở miền Bắc, GHPGVNTN và BLLPGYNTPHCM ở miền Nam – thành một giáo hội thống nhất nằm dưới quyền kiểm soát của MTTQVN. Ban Tôn giáo Chính phủ (BTGCP) ủy thác trực tiếp cho ông Đỗ Trung Hiếu (bí danh Mười Anh) – một đảng viên thâm niên hoạt động ở mảng tôn giáo – thực hiện. Phản ứng và hành động của ban lãnh đạo GHPGVNTN với cuộc vận động này đã có sự chia rẽ: Các hòa thượng Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ tỏ rõ thái độ phản đối đề án của chính quyền, GHPGVN có cấu trúc hoạt động thấp hơn một hiệp hội và chỉ dành riêng cho tu sĩ nam nữ tham gia, không có sự tồn tại của cư sĩ cũng như các hoạt động xã hội, truyền giáo bị hạn chế tới tuyệt đối. thế=Cổng chùa Ấn Quang.|nhỏ|Chùa Ấn Quang, nơi từng là trụ sở của GHPGVNTN, đã bị chính quyền cưỡng chế sau khi GHPGVN thành lập.|235x235px|tráiKể từ khi thành lập GHPGVN, GHPGVNTN đã bị chính quyền Việt Nam phủ nhận sự tồn tại mà không có một văn bản công khai hay tuyên bố nhất quán nào. Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế (AXQT), việc các nhà sư không tham gia vào tổ chức GHPGVN đều bị coi là "bất hợp pháp": họ bị chính quyền gây áp lực buộc phải gia nhập giáo hội hoặc bị cho vào trại cải tạo hay bắt tù giam. Bằng chứng là trong các năm 1984 đến 1986, hàng loạt vụ bắt giữ những nhà sư GHPGVNTN đã diễn ra trên nhiều tỉnh thành miền Nam, trong số đó nhằm vào những nhân vật lớn thuộc giáo hội như Thích Nguyên Giác, Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải, Thích Trí Siêu, Thích Trí Thủ,... Những sự kiện trên xảy ra trong bối cảnh hàng loạt vụ bắt giữ của giới chóp bu trong Nam với những người có liên quan đến chế độ cũ. Các sinh hoạt tôn giáo cũng bị hạn chế nghiêm ngặt cho tới trước giai đoạn suy thoái và sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, cuối thập niên 1980 – đầu thập niên 1990. Từ năm 1978, để phản ứng vụ bắt ba lãnh đạo của giáo hội là Thích Huyền Quảng, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh – người sau này qua đời khi vẫn đang trong trại giam – Thích Đôn Hậu đã viết đơn từ bỏ chức vụ Đại biểu Quốc hội cùng vị trí Ủy viên trong MTTQVN mà chính quyền giao cho ông. Ông cũng từ chối gia nhập GHPGVN do chính quyền hậu thuẫn. Năm 1991, ông viết một bản chúc thư hiệu triệu các Phật tử hải ngoại đoàn tụ lại để thành lập GHPGVNTN quốc tế, theo hiến chương 1964 của giáo hội (tu chính năm 1973). Những bản ghi âm tang lễ và bản sao bản kiến nghị được rải truyền khắp các chùa miền Nam đã gây nên một cuộc đàn áp chính thức. Chính quyền nhanh chóng cho công an lục soát các ngôi chùa để tìm bản sao kiến nghị của Thích Huyền Quang, thẩm vấn những người sở hữu nó và trong một số trường hợp là bắt giữ những người ủng hộ nhà sư. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991, chính quyền thừa nhận niềm tin tôn giáo trong con người và tán thành sự hữu ích của tôn giáo trong xã hội dân sự. Từ đây, nhà nước dần gỡ bỏ những cấm đoán và hạn chế trong các hoạt động tôn giáo nói chung, dẫn đến sự hồi sinh của Phật giáo tại Việt Nam trong thập niên 1990, dù vẫn bị kiểm soát chặt chẽ đã phần nào được nới lỏng: bắt đầu cho phép tự do thờ cúng nhiều hơn; các chùa chiền, nhà thờ được xây dựng và trùng tu; và các dòng tu được tham gia vào công tác xã hội, v.v.. Vì lẽ đó, nhiều tu sĩ xem đây là thời điểm thích hợp để yêu cầu tự do tôn giáo. Ngày 25 tháng 6 năm 1992, chi nhánh GHPGVNTN quốc tế đã gửi một bản kiến nghị 9 điểm tới chính quyền, chủ yếu liên quan đến việc hợp pháp hoá tổ chức và tự do tín ngưỡng cho mọi công dân. Lần đầu tiên, đại diện của chính phủ có đến thảo luận về những khiếu nại này tại văn phòng GHPGVNTN hải ngoại ở Quảng Ngãi, dù không đưa ra một hành động cụ thể để giải quyết các vấn đề trong thư.
Một nguyên nhân sâu xa khác của cuộc biểu tình là vào năm 1993, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ về vấn đề nhân quyền khi hàng trăm bài viết về nhân quyền xuất hiện trên hàng loạt các trang báo, tin tức chính thống. Theo nhà báo Võ Văn Ái – Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo GHPGVNTN kiêm Trưởng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế (PTTPGQT) – hiện tượng trên xảy ra là do tác động của hai sự kiện lớn xảy ra trong năm này: thứ nhất là Hội nghị Thế giới về Nhân quyền của Liên Hợp Quốc (LHQ), tổ chức tại Viên cùng Cuộc họp trù bị ASEAN tổ chức ở Bangkok – nơi lần đầu tiên Việt Nam tuân thủ và ủng hộ theo các tiền đề về "hệ giá trị Châu Á". Thứ hai đó là biểu tình Phật giáo lớn ở Huế xảy ra vào tháng 5 cùng năm. Các bài viết bàn luận về nhân quyền khi này thường chia thành hai loại: loại một là phân tích lý thuyết về tiền đề nhân quyền trong nỗ lực xây dựng một khái niệm cụ thể dựa trên "hệ giá trị Việt Nam"; loại hai là chỉ trích những nhà sư tổ chức biểu tình vì "lợi dụng nhân quyền và tôn giáo để làm tổn hại đến nhà nước". Tuy nhiên, có những bài viết lại một mặt bàn luận cởi mở về vấn đề nhân quyền hay lịch sử Phật giáo, nhưng mặt khác lại lên án gay gắt một số tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, đánh đồng họ với khái niệm "diễn biến hòa bình" – vốn được dùng để miêu tả các "thế lực thù địch" nhằm phá hoại chế độ. Đây được xem là lần đầu tiên và cuối cùng "hệ giá trị Việt Nam" được nhắc đến trên báo chí chính thức, theo sau đó là một cuộc đàn áp rộng rãi các tổ chức Phật giáo nằm ngoài sự quản lý của chính quyền. Nhân quyền tại Việt Nam cũng trở thành điều cấm kỵ trên các phương tiện truyền thông nhà nước nói chung.
Diễn biến
Cái chết của Tăng thống Thích Đôn Hậu đánh dấu cho các hoạt động mới nhằm tái lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Kể từ ngày tang lễ của Đức Tăng Thống, những cuộc đối đầu dần leo thang và lên đến đỉnh điểm vào 1993 với cuộc biểu tình lớn xảy ra tại Huế vào tháng 5.
Vụ tự thiêu tại chùa Thiên Mụ
nhỏ|269x269px|Ngày 21 tháng 5 năm 1993, một nam cư sĩ đã đến ngồi sau mộ Thích Đôn Hậu để tự thiêu. Đằng sau ông là bia tưởng niệm sư [[Thích Quảng Đức – người tự thiêu trong Biến động Phật giáo 1963.]] Căng thẳng giữa GHPGVNTN và chính quyền đã gia tăng từ tháng 4 năm 1993, khi ngày giỗ âm lịch đầu tiên của Thích Đôn Hậu đang đến gần. Trong suốt các ngày 10 đến 12 tháng 4 năm 1993, chùa Thiên Mụ, địa điểm đặt lăng mộ Thích Đôn Hậu, bị công an rào đường lại canh giữ nghiêm ngặt. Vụ tự thiêu diễn ra ngay trước sự chứng kiến của những du khách đang tham quan chùa.
Theo tờ Tuổi Trẻ, người đàn ông đã trải qua quá trình cấp cứu nhưng không qua khỏi. Một phiên khám nghiệm tử thi và lập biên bản vụ việc diễn ra dưới sự chứng giám của các cơ quan chức năng và nhà sư chùa Thiên Mụ. Vì không có người đến nhận xác nên chính quyền phải đứng ra mai táng cho ông. Trái ngược với xác định của các nhà sư, chính quyền cho biết người tự thiêu tên Đào Quang Hộ, 52 tuổi, Nhiều cơ quan báo chí Việt Nam và quốc tế đã thống nhất dẫn lại cái tên này theo báo cáo từ chính quyền. Bất chấp việc cảnh sát bắc loa yêu cầu những người tham gia giao thông và đường bộ phải giải tán khỏi chỗ các nhà sư tọa kháng, chỉ trong vòng vài giờ đã có hơn 40.000 Phật tử, sinh viên cùng các tầng lớp dân chúng tập hợp lại chỗ những nhà sư tuyệt thực. Ghi nhận khi đó báo cáo số Phật tử tham gia biểu tình phần nhiều đến từ ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị.
Bất ngờ trước độ lan rộng của biểu tình, công an liền cưỡng ép Thích Trí Tựu lên chiếc xe jeep chở khỏi UBND, khiến ông bất tỉnh vì choáng ngợp. Khi xe chở Hòa thượng Thích Trí Tựu ra tới đường Lê Lợi, các nhà sư và đám đông tại hiện trường đã lao đến bao vây lại chiếc xe. Nhưng từ báo cáo của nhân chứng trong cuộc biểu tình, những công an mặc thường phục được cho là người đốt cháy xe để tăng nặng thêm tình tiết sự việc. Những người này cũng đã trà trộn vào đám đông và bắt giữ người biểu tình. Quá trình lật và đốt cháy xe khiến cho giao thông bị tê liệt trong ba giờ đồng hồ. Đám đông tụ tập sau đó bị rào khỏi chiếc xe đang cháy nhưng sư Thích Hải Thịnh lúc này vẫn ra tọa kháng một mình giữa đường, liên tục hô to "Đàn áp Phật giáo" trong vòng bao vây của an ninh.
Không thành công trong việc dùng vũ lực dập tắt biểu tình, phía công an phải cử riêng một phái viên đến đàm phán với các nhà sư vẫn còn ở tại chùa. Cuộc biểu tình chỉ kết thúc vào khoảng 2:30 chiều, tức sau hơn 5 tiếng đồng hồ diễn ra, khi nhà sư Thích Thái Hòa đích thân từ chùa Thiên Mụ xuống thông báo Thích Trí Tựu đã tới chùa một cách an toàn. Các nhà sư sau đó dừng tuyệt thực đi về, đám đông cũng dần giải tán.
Xử lý
Bắt giữ và xét xử
phải|nhỏ|223x223px|Các nhà sư có mặt tại tòa xử án ngày 15 tháng 11 năm 1993. Từ trái sang phải: Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh; ngoài cùng bên trái: Thích Hải Thịnh. Bên dưới bức ảnh là dòng mô tả từ phía công an Việt Nam: "Bọn gây rối trật tự ở Huế trước vành móng ngựa". Sau khi xảy ra vụ biểu tình ở Huế, cảnh sát đã lần lượt bắt giữ 6 nhà sư chùa Thiên Mụ, trong đó có Hòa thượng Thích Trí Tựu, với tội danh kích động biểu tình. Theo nguồn tin của GHPGVNTN, ít nhất 50 người khác cũng bị bắt vì liên quan đến cuộc đối đầu. Phóng sự này đã dùng chính những phân cảnh trong đoạn băng và các bài báo của chính quyền để phản bác lại những cáo buộc gắn cho các nhà sư trong vụ biểu tình. Lửa phực lên từ Huế lần đầu trình chiếu tại hội nghị Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (HRC) tháng 2 năm 1995 và tiếp theo là tại Viện Goethe ở Montreal, Canada dưới phụ đề ba thứ tiếng Anh, Pháp, Việt vào tháng 4 cùng năm.
Các vụ biểu tình và tự thiêu ở Nam Bộ
Hai tháng kể từ vụ biểu tình lớn ở Huế, một cuộc chạm trán giữa các nhà sư với chính quyền đã diễn ra tại chùa Sơn Linh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tháng 7 năm 1992, MTTQ và UBND tỉnh ban hành lệnh trục xuất trụ trì Thích Hạnh Đức cùng các nhà sư chùa Sơn Linh, sau khi ông công khai đọc bản thỉnh nguyện của Thích Huyền Quang cũng như ủng hộ khôi phục GHPGVNTN. Xung đột chính xảy ra vào ngày 9 tháng 7 năm 1993, khi chính quyền vào tận nhà chùa để thực hiện lệnh trục xuất hậu hành động ủng hộ biểu tình Huế của Thích Hạnh Đức cùng việc ông thách thức tính hợp lệ của lệnh trên. 100 nhà sư và những người ủng hộ Thích Hạnh Đức đã bị bắt giữ trong cuộc đối đầu; hầu hết những người bị bắt đều lập tức được thả ra ngoại trừ Thích Hạnh Đức, sư Thích Thiện Thọ và 4, 5 người ủng hộ bị cho là sở hữu kho vũ khí gồm 5 kg thuốc nổ, gậy và dao. Sau cùng, tòa kết án Thích Hạnh Đức 3 năm tù giam do "chống người thi hành công vụ", "hoạt động trái pháp luật" và "phát tán tài liệu thù địch". Thích Thiện Thọ chịu án 18 tháng quản thúc tại gia với tội danh tương tự.
Từ ngày 3 tới ngày 5 tháng 8 năm 1994 tại TPHCM, một cuộc biểu tình của các Phật tử đã diễn ra dưới sự lãnh đạo của thành viên GHPGVNTN Thích Giác Nguyên, trụ trì chùa Long An ở tỉnh Trà Vinh. Những nhà sư tụ tập trước trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để phản đối chính quyền can dự vào các vấn đề nội bộ nhà chùa. Kết quả, ngày 7 tháng 8 cùng năm Thích Giác Nguyên đã bị bắt giữ tại một ngôi chùa trong thành phố, đến ngày 18 tháng 8 chính quyền xác nhận việc giam giữ và thẩm vấn ông. Hai tổ chức này đại diện GHPGVNTN phát động chiến dịch cứu trợ lũ lụt tại khu vực ĐBSCL, nơi vừa trải qua trận lũ kỷ lục trong lịch sử. 60 nhà sư trong giáo hội cùng 300 tín đồ Phật giáo đã tụ về TPHCM để chuẩn bị công tác từ thiện; nhưng ngay khi đoàn định xuất phát thì công an bất ngờ phát động một cuộc bắt giữ. Đến 15 tháng 8 năm 1995, trong phiên xét xử kín diễn ra một ngày tại Tòa án nhân dân TPHCM, nhiều cá nhân bị xử phạt với tội danh "phá hoại chính sách đoàn kết" và "lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền lợi Nhà nước". Trong lá thư, ông chất vấn việc chính quyền tôn vinh lãnh đạo Triều Tiên thay vì những nhà sư tử đạo, kèm theo đó là một bài phê bình dài 44 trang phê phán chủ nghĩa cộng sản và các chính sách kìm hãm Phật giáo của chính phủ. Nhưng theo phía chính quyền, lý do Thích Quảng Độ ra tù sớm là vì ông viết thư "ăn năn hối cải" trong đợt ân xá Quốc khánh.
Phản ứng trong nước
Chính quyền Việt Nam
Với quy mô hơn 40.000 người tham gia, biểu tình Phật giáo tại Huế được xem là lớn "chưa từng có" dưới chế độ Cộng sản thống nhất tại Việt Nam. Việc một biểu tình được tổ chức công khai và rầm rộ như vậy đã trở thành thách thức gây chấn động cho giới cầm quyền. Các cảnh sát và người của chính quyền đều có thái độ bị động, hoàn toàn chưa chuẩn bị trước cuộc biểu tình này. Hành động của lực lượng an ninh xuyên suốt biểu tình đa phần là cố gắng kiềm chế bạo lực trong đám đông và hạn chế mọi cách làm tổn hại đến các nhà sư đang tuyệt thực để tránh tạo ra phản ứng dây chuyền; chỉ đến khi các nhà sư đi hết thì chính quyền mới cho người giải tán đám đông. Từ sau sự biến ở Huế 1993, Bộ Chính trị ĐCSVN đã ra chỉ thị cho quân đội trực tiếp tham gia kiểm soát các tôn giáo nói chung tại Việt Nam. Tính nghiêm trọng của vụ việc cũng dẫn đến việc công an lẫn quân đội Việt Nam phải tổ chức gấp một hội nghị "Về nguy cơ diễn biến hoà bình", diễn ra ở Hải Phòng ngày 26 tháng 6 năm 1993 với sự tham gia của các tướng Đặng Vũ Hiệp, Lê Quang Thanh. Toàn bộ văn bản đã được ông gửi đến VCHR sau đó. Vì tài liệu này mà Đỗ Trung Hiếu ngay lập tức bị bắt vào ngày 14 tháng 6 cùng năm và phải thụ án 18 tháng tù giam. Trên các mặt báo của chính quyền, cho thấy phản ứng của người dân tại Huế nói chung và các tăng ni, Phật tử nói riêng đều đồng loạt lên án hành động "lợi dụng tự do tín ngưỡng vi phạm luật pháp, phá rối trật tự an ninh" trong cuộc biểu tình. Giáo sư Tôn Thất Hanh, nguyên trưởng khoa Trường Đại học Sư phạm Huế, xem việc dư luận lên án vụ biểu tình là một "sự thật đã quá rõ ràng" cho các hành vi "trái với đạo lý của dân tộc của nhóm người quá khích". Quan điểm này cũng giống với phần đa tiếng nói của nhiều cá nhân khác nhau xuất hiện trên hàng loạt bài báo đấu tố các nhà sư. Khác với những diễn biến được ghi lại từ cuộc biểu tình, Dương Chiến, một trong những tay quay phim có mặt hôm xảy ra sự vụ, khẳng định trên báo Lao Động rằng "nom trên màn hình thì dữ dội thế, trong thực tế mấy vị áo vàng hung hăng hò hét ấy có kích động được mấy ai đâu!".
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Ngày 7 tháng 6 năm 1993, Văn phòng II Trung ương GHPGVN, Ban Thường trực GHPGVN đã tổ chức một cuộc họp bất thường và đưa ra thông cáo chính thức về vụ biểu tình. Quan điểm chung của ban lãnh đạo giáo hội là phản đối cũng như lên án các nhà sư "gây rối"; không chỉ gọi hành động của sư biểu tình là ngược lại với đường lối GHPGVN mà còn khẳng định những hành vi ấy mang tính "hung hãn [...] hoàn toàn xa lạ với bản tính của đạo pháp".
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Ngay một ngày sau vụ biểu tình lớn diễn ra, Thích Trí Tựu đã viết thư tới Chủ tịch FIDH, trình bày tường tận diễn biến sự vụ và kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế. Theo The New York Times, một bức thư khác của Thích Trí Tựu, gửi đến nhóm bất đồng chính kiến tại Paris, đã cảnh báo chính phủ Việt Nam nhượng bộ việc "đàn áp" các Phật tử; còn không sẽ "biến cơ thể của mình thành ngọn đuốc soi sáng sự thật". Tăng Đoàn Bảo vệ Chánh Pháp tỉnh Thừa Thiên Huế sau đó ra Thông báo số 1, lên tiếng "để nối tiếp cuộc đấu tranh bảo vệ Chánh Pháp đã nổi lên cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1993 vừa qua". Tăng đoàn đã chống đối những vụ bắt giữ "phi pháp" của chính quyền đối với Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng và Thịnh Hải Thịnh, đưa ra tuyên bố rằng hành động "đánh phá GHPGVNTN, là đánh phá toàn dân. Việc làm này chưa có chế độ nào thành công trong lịch sử Việt Nam". Ngày 20 tháng 11 năm 1993, cùng những phản ứng quốc tế sau phiên xét xử các nhà sư trong vụ biểu tình, Viện trưởng Viện Hóa đạo Thích Quảng Độ ra thông cáo kêu ĐCSVN là "nguyên do nghèo đói" và là "cản lực trên con đường tiến thủ của dân tộc Việt Nam". Bản thông cáo đòi phải viết lại Hiến pháp Việt Nam, xóa bỏ "tính chất độc tài đảng trị như điều 4 Hiến pháp CSVN đã quy định"; chấm dứt đàn áp và khủng bố tôn giáo cũng như các đoàn thể chính trị đối lập nếu ĐCSVN "muốn tồn tại". Ngày 20 tháng 11 năm 1995, ông tiếp tục công bố tuyên ngôn 9 điểm từ Quảng Ngãi tới chính quyền. Bên cạnh lên án hành động phớt lờ giáo hội và tăng cường đàn áp tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, tuyên ngôn cũng kêu gọi chính phủ Việt Nam cải thiện tình hình thông qua các hành động hòa giải mang tính thực tiễn ở phương diện tôn giáo và sai lầm trong quá khứ; chấp nhận sự tồn tại của giáo hội theo các điều tự do cơ bản trong khuôn khổ pháp luật; và xem xét lại việc kết án những nhà sư tham gia cứu trợ lũ lụt năm 1994. Toàn văn bản tuyên ngôn của Thích Huyền Quang đã được sao in rộng rãi tới tổ chức trong và ngoài nước, chính khách Việt Nam lẫn các nhà sư trong GHPGVNTN.
Phản ứng quốc tế
Cuộc biểu tình sau khi nổ ra đã thu hút sự chú ý của quốc tế tới vấn đề Phật giáo tại Việt Nam, gây được phản ứng ủng hộ GHPGVNTN từ đại diện nghị viện ở các nước châu Âu, châu Á, Hoa Kỳ, Úc; các hội đoàn quốc tế trong đó có Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền, Liên đoàn lao động và hiệp hội của các tổ chức công nghiệp Hoa Kỳ, Tổ chức Ân xá Quốc tế,... bên cạnh nhiều tổ chức tôn giáo và chính trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Theo Hòa thượng Thích Huyền Quang, điều này có thể thấy rõ qua thái độ của chính phủ các nước Úc và Âu châu trong những chuyến thăm của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 1995, kêu gọi trả tự do cho các nhà sư và công nhận sự tồn tại của GHPGVNTN.
Tổ chức, chính phủ nước ngoài
Nhiều thành viên trong Thượng, Hạ viện Hoa Kỳ đã bày tỏ ủng hộ đến các nhà sư bất đồng chính kiến và đưa ra cảnh báo về việc tố tụng hình sự nhà sư tham gia biểu tình sẽ ảnh hưởng đến tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Theo The Christian Science Monitor, nhiều nhà quan sát chính trị Việt Nam và quốc tế nhận định GHPGVNTN đang cố gắng lợi dụng sự bất mãn từ dân chúng và những vấn đề trong nội bộ ĐCSVN để khôi phục lại tính chính danh của tổ chức.
Về sau, chính quyền Việt Nam đã dần từ bỏ việc đàn áp toàn bộ GHPGVNTN và những người theo giáo hội trong nước. Điều này là do sức ép từ Hoa Kỳ cùng các tổ chức nhân quyền, sau khi hai nước đi đến bình thường hóa ngoại giao vào 1995. Không một văn bản nào phủ nhận hoạt động của GHPGVNTN được chính thức ban hành; một số cơ sở Phật giáo không thể hiện tính chính trị công khai trong hội duy trì hoạt động tại Việt Nam nhưng thường xuyên bị phá hoại và không được cấp phép tu bổ, sửa sang. Những vụ sách nhiễu và giam giữ các nhà sư trong giáo hội vẫn còn tồn tại. Năm 2003, Thích Huyền Quang đã tổ chức một Đại hội Bất thường nhằm chấn chỉnh lại tổ chức giáo hội, theo gợi ý từ Thủ tướng Phan Văn Khải. Song ngay sau khi đại hội kết thúc, công an Việt Nam liền tổ chức một chiến dịch bắt giữ hàng loạt chức sắc tôn giáo của GHPGVNTN, lục soát tất cả cơ sở chùa chiền liên quan tới giáo hội lẫn ruồng bố các nhà sư.