✨Phật giáo Việt Nam

Phật giáo Việt Nam

nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm tương đồng và khác biệt so với Phật giáo của các nước khác trên thế giới. Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cổ đại nên mang nhiều nét của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt là tôn giáo. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam, mang nhiều ảnh hưởng của hệ phái Phật giáo Bắc tông.

Tuy nhiên, ở khu vực miền Nam, hệ phái Phật giáo Nam tông cũng có ảnh hưởng không nhỏ, nhất là trong cộng đồng người Khmer Nam bộ. Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2020, hiện có hơn 4,600,000 tín đồ Phật giáo , còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ quy y tam bảo, có 1002 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni, hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường.

Lịch sử

nhỏ|phải|Bản in Kinh Phật [[Diệu pháp liên hoa cổ của Việt Nam]] Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Những vết tích đầu tiên được được ghi nhận với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Đầu công nguyên, Luy Lâu (Bắc Ninh) là thủ phủ của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các dấu tích của Phật giáo tại Việt Nam được ghi nhận qua các truyền thuyết như Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189, Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.

Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt".

Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn: Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp; Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh; Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái; Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.

Các tông phái

Thiền tông

thumb|282x282px|Thiền phái Trúc Lâm mang đậm bản sắc thiền của Phật giáo Việt Nam Thiền tông được Bồ-đề-đạt-ma truyền sang Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. Theo các nhà nghiên cứu Phật giáo, Thiền tông ngay sau đó không lâu cũng được truyền sang Việt Nam, với dấu ấn của dòng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Sư vốn là người Ấn Độ, qua Trung Quốc đắc pháp với Tam tổ Tăng Xán rồi đến Việt Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ.

Khi Lục tổ Huệ Năng phát dương rực rỡ Thiền tông Trung Quốc, nhưng đặc tính của nó cũng xuất hiện ở Việt Nam với các dòng Thiền Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời: "Phật ở tại tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật. Trần Nhân Tông viết trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo:

"Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền."

Dịch: "Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền."

Tịnh độ tông

thumb|262x262px|Chùa Hoằng Pháp theo pháp môn tịnh độ, nơi tổ chức các khóa tu nhiều và lớn nhất Việt Nam Tịnh độ tông là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu tâm dựa vào tha lực của Phật A Di Đà để đắc đạo. Dù vậy đương sự vẫn phải tự lực dốc lòng niệm Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni có lần thuyết giảng: "Một viên đá dù nhỏ đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi" nên Tịnh độ tông cho là dù nghiệp nặng tới đâu việc thành tâm niệm Phật cũng sẽ là phương tiện giúp tín đồ sau khi mãn kiếp sẽ tới miền Cực lạc.

Theo Tịnh độ tông cõi Cực lạc là một nơi sinh linh không bị buộc vào vòng luân hồi. Nơi đó Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) là giáo chủ. Phật tử có thể dùng công đức, làm việc thiện, đọc kinh, niệm Phật (nhất là tụng danh Phật A Di Đà), hồi hướng thiện tâm mà góp sức cứu sinh linh lớn nhỏ thì mai sau cũng sẽ đắc quả. Không như Thiền tông dựa vào tâm lực để giác ngộ, Tịnh Độ tông mở lối cho Phật tử vi giác qua công quả, có phần thực tế và giản dị hơn việc luyện trí tập thiền nên tông phái này rất phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy mà đi đến chùa nào cũng nghe câu "Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy y đức Phật A Di Đà") và gần như chùa nào cũng lập tượng Phật A Di Đà để thờ.

Mật tông

Mật tông là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt Ma tông, Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Bước quyết định trong nghi thức này là lễ Quán Đỉnh (Abhiseka) do một vị sư cả (guru hay "lạt ma") ban phép cho người đệ tử được nhập thiền định tâm vào một vị Phật cụ thể bằng cách đọc chân âm (mantra), suy niệm đồ hình Mạn đà la (mandala) và thực thi ấn quyết (mudra) để đạt đến độ thăng hoa loại bỏ ý niệm nhị nguyên (duality) để nhập vào Chân Như, vào cõi Không. Trạng thái đó được biểu tượng bằng Kim cương chử (Vajra). Để làm chủ được các nghi thức tác pháp của Mật tông (còn gọi là Kim Cương thừa - Vajrayana) thì điều tiên quyết là phải thấu hiểu giáo nghĩa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Prajnaparamita) của Long Thụ và Vô Trước. Giáo nghĩa Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là "Nhân thừa", và giáo nghĩa Kim Cương thừa được gọi là "Quả thừa". Tương truyền rằng Mật tông do đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật tông có hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật kinh và Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Như vậy, từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ thứ 7, Thiền tông Việt Nam mang đậm giáo nghĩa Tam Luận tông của Long Thụ, mà đặc biệt là tư tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thụ và Vô Trước. Các thiền sư thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi không chỉ uyên thâm về Phật pháp mà nhiều vị rất có uy tín với triều đình và biểu thị rõ ý thức độc lập tự chủ của đất nước. Các thiền sư Pháp Thuận, Ma Ha (thế kỉ thứ 10), Sùng Phạm (thế kỉ 12),... đều làm cố vấn cho nhà vua không chỉ việc đạo mà cả việc đời, việc ngoại giao. Đặc biệt, các thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình thức tu tập "Tổng Trì Tam Muội" (Dharani samadhi), một hình thức tu tập phổ biến của Mật giáo (Tantrism), dùng chân âm kết hợp với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở Hoa Lư (Ninh Bình), một cột kinh Phật bằng đá vào thế kỉ thứ 10 có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni (Usnisavijaya dharani), một thần chú phổ biến của Mật tông, đã được phát hiện.

Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,...

Nam tông

thumb|306x306px|Bảo tháp xá lợi đức Phật Gotama Cetiya chùa Bửu Long Phật giáo Nam tông được truyền rất sớm vào Việt Nam do các tổ sư Ấn Độ truyền bá nhưng đến khi Đại thừa truyền vào từ Trung Quốc thì dần dần thay thế Phật giáo Nam truyền.

Hiện nay Phật giáo Nam tông phát triển mạnh ở miền nam chủ yếu là Phật tử đồng bào dân tộc Khmer. Mãi đến cuối những năm 1930, thì các sư Hộ Tông, Bửu Chơn, Thiện Luật... truyền bá Phật giáo Nam tông từ Campuchia. Hiện nay, Phật giáo Nam tông (Theravada) là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Hệ phái Khất sĩ Việt Nam

thumb|236x236px|Lễ tưởng niệm 60 năm ngày tổ sư [[Minh Đăng Quang vắng bóng, tại Pháp viện Minh Đăng Quang.]] Đạo phật Khất sĩ Việt Nam là một tông phái Phật giáo nội sinh do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ 1944, lấy chí nguyện " Nối truyền Thích ca chính Pháp", sư đã dung hợp hai truyền thống Đại thừa phát triển mạnh và Nam truyền gần gũi với lời dạy gốc của Đức Phật. Đi trước phong trào chấn hưng phật giáo những đóng góp của sư có vai trò to lớn trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Bộ sách Chân lý đã đúc kết những nguyện vọng, tông chỉ, đường hướng hoằng đạo của ngài cho các đệ tử.

Đặc điểm

phải|nhỏ|Tượng Phật Tổ phủ sơn, phong cách Việt Nam Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.

Khế lý là nói về mặt tư tưởng, nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát.

Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử, nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.

Ngoài ra giáo lý Phật giáo còn được hòa trộn với các tôn giáo khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý". thumb|321x321px|Tượng Quan Âm Nam Hải ở Bạc Liêu

Phật giáo ảnh hưởng của mẫu hệ

Nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam, làm cho Phật giáo Việt Nam có phần nữ tính hóa.

Các vị Phật Ấn Độ xuất hiện với thân nam, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật bà". Mẹ Quan Âm (Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị "thần" cứu giúp cho nhân dân, người miền biển còn gọi là Quan Âm Nam Hải (biển đông). Ngoài ra người Việt còn có những vị "Phật-Mẫu" riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).

Ảnh hưởng đến tôn giáo khác

Bửu Sơn Kỳ Hương

Bửu Sơn Kỳ Hương hay đạo Lành do Đoàn Minh Huyên, đạo hiệu Giác Linh khai sáng vào năm 1849, là một giáo phái dựa vào sự tích Bồ tát Di Lặc hạ sinh để rao giảng về hội Long Hoa của Phật Di Lặc. Bửu Sơn Kỳ Hương đơn giản hóa các triết lý sâu xa của đạo Phật. Đạo đề cao tứ ân, tôn người lập đạo là Phật thầy Tây An.

Tứ Ân Hiếu Nghĩa

Tứ Ân Hiếu Nghĩa, gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa[1], do Ngô Lợi (thường được tín đồ gọi là Đức Bổn sư) sáng lập. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương, nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ và để che mắt thực dân Pháp. Sau khi vua Hàm Nghi bị đày, Ngô Lợi mất, phong trào tan rã chỉ còn lại những hoạt động tín ngưỡng. Đạo hình thành trên tư tưởng của Bửu Sơn Kỳ Hương nên ngày càng xa với triết lý của Phật dạy.

Đạo Hòa Hảo

Đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo là một giáo phái dựa trên nền đạo đức triết lý Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia. Số tín đồ Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở Nam bộ, nhất là ở Tây Nam bộ.

Thực chất Phật giáo Hòa Hảo là tiếp nối của một tông phái Phật giáo có từ gần một trăm năm trước ở đồng bằng Nam bộ có tên là Bửu Sơn Kỳ Hương do Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) sáng lập vào năm 1849 tại vùng Bảy Núi (tỉnh An Giang). Tiếp sau Phật Thầy Tây An là Tứ ân hiếu nghĩa của Phật Trùm, Ngô Lợi (Đức Bổn Sư) rồi đến Huỳnh Phú Sổ. Thời kỳ Huỳnh Phú Sổ là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của đạo Hòa Hảo.

Giáo lý là sự kết hợp của Tịnh Độ tông với Đạo Ông Bà. Tôn chỉ là "Học Phật Tu Nhân", noi theo giáo lý Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực hành thuyết "Tứ ân (ơn)": cha mẹ, đất nước, tam bảo (Phật-Pháp-Tăng), nhân loại.

Cách thức tu hành của Phật giáo Hòa Hảo rất đơn giản là "tu hành tại gia". Người "cư sĩ tại gia" cúng lạy vào hai buổi sớm mai và chiều tối với 16 lạy như một bài thể dục toàn thân ở "bàn thông thiên", ăn chay một tháng 4 ngày để cơ thể khỏe mạnh; thờ trần đỏ hoặc trần dà với ý nghĩa hòa hợp; không chấp nhận mê tín dị đoan (không đốt vàng mã, không cúng tà thần...); thực hành tiết kiệm triệt để như không dâng cúng thực phẩm cho Phật mà chỉ cúng bông hoa nước sạch, không ăn thịt trâu, chó, bò để giữ sức kéo...; không hình thức: không đúc tượng, không chuông mõ, "tử thì táng", không có hàng giáo phẩm và không có tổ chức đạo (trước năm 1947).

Tịnh độ cư sĩ Phật hội

thumb|Thôn hội tịnh độ cư sĩ ở Vĩnh Long Tịnh độ cư sĩ Phật hội do đức Tôn sư Minh Trí sáng lập dựa vào pháp môn tịnh độ lấy giáo lý Đức Phật làm gốc, nhưng diễn đạt đơn giản, dễ hiểu phù hợp với quần chúng nông dân hơn. Phương châm hành đạo "Phước Huệ song tu" lấy việc chữa bị bệnh chăm sóc sức khỏe bằng thuốc nam và Đông y làm phương tiện hành đạo - Phước; lấy pháp môn niệm phật A Di Đà học tập kinh A Di Đà, Vô Lương Thọ, Quán Vô Lượng Thọ - Huệ. Đạo lấy giáo lý của tôn sư Minh Trí làm căn bản dạy cư sĩ tu tập theo các quyển "kinh, luật, luân" như: Lục Phương lễ bái, Phu thê ngôn luận, Đạo đức, Giới luật, Phật học vấn đáp, Phương pháp kiến tánh.

Ảnh hưởng đến văn hóa

nhỏ|phải|Một bức tượng đức Phật cở nhỏ theo phong cách đơn sơ, giản dị kiểu Việt Nam Trong văn học dân gian thì truyện bình dân kể lại truyện Bà Chúa Ba tức truyện Quan âm chùa Hương. Nghệ thuật trình diễn có vở chèo Quan Âm Thị Kính. Truyện Kiều của Tố như Nguyễn Du cũng hàm chứa nhiều tư tưởng Phật giáo.

Số tục ngữ ca dao liên quan đến Phật giáo rất đa dạng: :Dù xây chín bậc phù đồ :Không bằng làm phúc cứu cho một người.

:Hiền như Bụt.
:Khẩu xà tâm Phật / Khẩu Phật tâm xà.
:
:Phật tại tâm, tâm tức Phật.

:Bụt nhà không thiêng.

:Đi với Bụt mặc áo cà-sa :Đi với ma mặc áo giấy.

:Miệng thì nam-mô, bụng bồ dao găm.

Giáo hội Phật giáo

nhỏ|Các tu sĩ trẻ tuổi tại thiền viện Thường Chiếu ([[Đồng Nai).]] Thời nhà Đinh, nhà tiền Lê, nhà Lý, và nhà Trần Phật giáo Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến các Triều đại. Đã có nhiều vị cao tăng được triều đình trọng dụng như thiền sư Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Minh Không, Pháp Loa, v.v. ra giúp tham chính và cố vấn, giúp chèo lái con thuyền đất nước trong những lúc khó khăn. Đinh Tiên Hoàng đế lập ra chức tăng thống và Tăng lục để đại diện cho Phật giáo với chính quyền.

Thời kỳ thuộc Minh, khi nhà Hồ chấn chỉnh đạo đến thời thuộc Minh, nhà Minh tàn phá tự viện, đập phá tượng Phật, đốt kinh sách, bắt bớ tu sĩ làm cho đạo Phật bị suy yếu. Tới thời Lê sơ, Lê trung hưng chính quyền Lê, Trịnh tôn sùng Nho giáo kìm hãm Phật giáo, còn miền Nam các chúa Nguyễn lại là các Phật tử nên đã chấn hưng Phật giáo, đạo Phật có một thời gian khởi hưng ngắn cho đến hết thời Tây Sơn.

Đến thời nhà Nguyễn, Gia Long cũng lấy Nho giáo làm trọng, Phật giáo bấy giờ bắt đầu suy vi mãi đến khi phong trào chấn hưng Phật giáo được phát động.

Tổng hội Phật giáo Việt Nam

Vào cuối thời chống Pháp dưới chính thể Quốc gia Việt Nam năm 1951 Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời. Đây là tổ chức đầu tiên với ý định thống nhất các tổ chức Phật giáo rời rạc. Tổng hội thành công trong việc liên kết các tự viện Đại thừa khắp ba miền Nam, Trung, Bắc. Tuy nhiên Tổng hội không có cơ cấu điều hành ngoài việc mở đường liên lạc.

Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam

Năm 1958 tại miền bắc thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng Lao động Việt Nam cho phép thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Khoảng thập niên 1960 Phật giáo đấu tranh chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa dẫn đến Biến cố Phật giáo, 1963. Hiến chương 1964 đặt nền móng cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một tổ chức quy tụ nhiều giáo phái ở phía nam vĩ tuyến 17 thành một lực lượng tôn giáo đáng kể.

Năm 1981 phần lớn phật tử của GHPGVNTN gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam mới được thành lập. Dù vậy một số thành viên của GHPGVNTN không chấp nhận sự hợp nhất và chống lại chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay GHPGVNTN bị phân tán và suy yếu, số lượng cơ sở bị giảm xuống còn vài ngôi chùa trong nước. Nhiều tăng sư di cư ra nước ngoài và thành lập các cơ sở hải ngoại thuộc GHPGVNTN.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Sau năm 1975, mãi đến năm 1981 chính quyền mới cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tổ chức Phật giáo duy nhất là đại diện cho Phật giáo tại Việt Nam, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giáo hội được thành lập vào ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, trên cơ sở hợp nhất tất cả tổ chức Phật giáo trong nước.

9 tổ chức hợp nhất gồm có: Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Giáo hội Thiên thai giáo Quán Tông Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam Hội đoàn kết Sư sãi Yêu nước Tây Nam Bộ *Hội Phật học Nam Việt

Hiện nay, GHPGVN là tổ chức phật giáo được công nhận lớn nhất tại Việt Nam. Đệ Tứ Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng.

Giáo hội Phật giáo ở nước ngoài

Nhiều sư tăng đã khi di cư sang nước ngoài sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, và thành lập nhiều chùa chiền của người Việt ở nước ngoài. Ví dụ như Mỹ, Úc, Canada, Anh, Pháp...

Một số cơ sở tuyên bố trung thành với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong nước vốn không được chính phủ công nhận. Một số tự thành lập giáo hội riêng biệt, ví dụ như:

  • Giáo hội Phật giáo Việt Nam Trên Thế Giới, thành lập năm 1984, trụ sở tại Montreal, Canada
  • Cộng đồng Làng Mai của Phật giáo Dân thân, do Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập năm 1969 tại Pháp; tên gọi ban đầu là Eglise Bouddhique Unifiée du Vietnam (Giáo hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam); năm 1998 thì đổi tên thành như ngày nay

Từ sau khi Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam lần đầu vào năm 2008, và lần cuối sư trở về năm 2018 cho đến ngày mất, đã có nhiều cuộc gặp tiếp xúc và hợp tác giữa GHPGVN trong nước và Làng Mai ở nước ngoài. Dù vậy Cộng đồng Làng Mai vẫn độc lập với GHPGVN.

Các hệ phái Phật giáo khác

Hiện tại có 6 hệ phái Phật giáo khác được công nhận và không thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Thay vào đó mỗi hệ phái có giáo hội riêng biệt.

  • Phật giáo Hòa Hảo: do Huỳnh Phú Sổ sáng lập năm 1939; có nhiều tín đồ tại vùng Tây Nam Bộ; hiện nay tổ chức lãnh đạo là Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
  • Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương: do Đoàn Minh Huyên sáng lập năm 1849; có tín đồ tại An Giang nhưng không nhiều; vì vậy chỉ có Ban Quản tự Chùa Bửu Sơn Kỳ Hương đại diện và lãnh đạo
  • Minh Sư Đạo: được thành lập từ khoảng cuối thế kỷ 19 bởi người Trung Quốc sang Việt Nam sống; dựa trên Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo; tín đồ không nhiều, tập trung chủ yếu ở vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ; hiện nay tổ chức lãnh đạo là Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo
  • Minh Lý Đạo: được sáng lập năm 1924; dựa trên Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo; tín đồ khá ít, tập trung tại vùng Đông Nam Bộ; cơ quan chủ quản là Hội đồng Hội thánh Minh Lý Đạo
  • Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam: do Đức Tông Sư Minh Trí sáng lập năm 1934; tín đồ tập trung tại vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ; cơ quan chủ quản là Ban Trị sự Trung ương Tịnh độ cư sĩ Phật hội
  • Phật giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa: do Ngô Lợi sáng lập năm 1876; tín đồ tập trung tại vùng Tây Nam Bộ; cơ quan chủ quản là Phật hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa

Chấn hưng Phật giáo

Vào đầu thế kỉ XX, hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật giáo các nước các nhà sư Việt Nam cũng vận động chấn hưng Phật giáo Việt Nam phát triển mạnh trên cả ba miền, đã tạo lập nên tổng thể Phật giáo Việt Nam hiện đại, Phật giáo dần lấy lại vị thế đáng có của mình, nhưng vẫn chưa phải là Quốc giáo ở Việt Nam.

Danh thắng Phật giáo

Trải qua hơn ngàn năm gắn bó với dân tộc và lịch sử Việt Nam, Phật giáo đã có cả một hệ thống danh lam thắng cảnh với nhiều ngọn núi và chùa nổi tiếng, nếu tìm chọn 4 ngọn núi lớn ở bốn phía Đông Tây Nam Bắc tạm coi là Tứ Đại Danh Sơn của Phật giáo Việt Nam thì đó có lẽ là:

  • Phía Tây: Núi Hương sơn, chùa Hương Tích ở Hà Nội
  • Phía Đông: Núi Yên Tử, Quảng Ninh
  • Phía Bắc: Núi Tam Đảo, Vĩnh Phúc
  • Phía Nam: Núi Bái Đính trong quần thể núi Tràng An, Ninh Bình.

Dưới đây là bảng chi tiết các ngọn núi và chùa nổi tiếng

Danh tăng Việt Nam

Giai đoạn tiền Chấn hưng Phật giáo Thế kỷ XX

  • Tổ Bồ Đề - Hoà thượng Thích Nguyên Biểu (1836 - 1906)
  • Hoà thượng Hoằng Ân - Minh Khiêm (1850 - 1914)
  • Hoà thượng Minh Hòa - Hoan Hỷ (1846 - 1916)
  • Hoà thượng Thích Thanh Hanh (1840 - 1918)
  • Hòa thượng Thích Chánh Hậu (1852-1923)
  • Hòa thượng Như Phòng - Hoằng Nghĩa (1867-1929)

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

  • Hoà thượng Thích Đức Nhuận (1897 - 1993) - Đệ Nhất Pháp chủ GHPGVN
  • Hoà thượng Thích Tâm Tịch (1915 - 2005) - Đệ Nhị Pháp chủ GHPGVN
  • Hoà thượng Thích Phổ Tuệ (1917 - 2021) - Đệ Tam Pháp chủ GHPGVN
  • Hoà thượng Thích Trí Quảng (1938) - Đệ Tứ Pháp chủ GHPGVN
  • Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984) - Đệ Nhất Chủ tịch HĐTS TW GHPGVN
  • Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917 - 2014) - Đệ Nhị Chủ tịch HĐTS TW GHPGVN
  • Hòa thượng Thích Thiện Nhơn (1950) - Đệ Tam Chủ tịch HĐTS TW GHPGVN *Hoà thượng Thích Thế Long (1909 - 1985)
  • Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1905 - 1992)
  • Hòa thượng Thích Minh Châu (1919 - 2012)
  • Hòa thượng Kim Cương Tử (1914 - 2001)
  • Hòa thượng Thích Thiện Siêu (1921 - 2001)
  • Hoà thượng Thích Thanh Bích (1913 - 2013)
  • Hoà thượng Thích Thanh Từ (1924)
  • Hoà thượng Thích Thanh Tứ (1927 - 2011)
  • Hoà thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), Bậc Kim Cương Thượng Sư, Thầy Tổ Phật giáo Kim Cương Thừa Việt Nam, Trụ trì Chùa Hương, chùa Thầy, chùa Vạn Niên Hà Nội
  • Hòa thượng Thích Hiển Pháp (1933 - 2018)
  • Hoà thượng Thích Chơn Thiện (1942 - 2016)
  • Hoà thượng Thích Đức Nghiệp (1929)
  • Hoà thượng Dương Nhơn (1930)
  • Hòa thượng Thích Giác Hạnh
👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
nhỏ|Trụ sở Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ, Hà Nội **Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni,
**Học viện Phật giáo Việt Nam** là một hệ thống Đại học Phật giáo Việt Nam của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập từ năm 1981, đặt dưới sự quản lý của
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
**Chủ tịch Hội đồng Trị Sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam** là người đứng đầu Hội đồng Trị sự thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thay mặt Giáo hội Phật giáo Việt Nam
**Tổng hội Phật giáo Việt Nam** là một tổ chức quy tụ những đoàn thể Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam khắp ba miền: Bắc, Trung, Nam thời Chiến tranh Đông Dương. Tổng hội
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Trên Thế Giới là một giáo hội Phật giáo của người Việt ở hải ngoại thành lập năm 1984 tại Montréal, Canada. Giáo hội này có nhiều thành viên
**Lễ nhạc Phật giáo Việt Nam** bắt nguồn từ một loại âm nhạc cổ đại Ấn Độ. Phật giáo Việt Nam thời kỳ mới du nhập, các vị sư truyền giáo lấy âm nhạc làm
nhỏ|Huy Hiệu Hoa Sen**Gia đình Phật tử Việt Nam** (**GĐPTVN**) là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật
nhỏ|Đạo kỳ **Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam** là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên nền tảng là Phật giáo nhưng độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt
**Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10** phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tôn giáo tại Việt Nam trong khoảng 100 năm từ sau nghìn năm Bắc thuộc, tức là thời
**Biến cố Phật giáo 1963**, còn được gọi là **sự kiện đàn áp Phật giáo 1963, pháp nạn Phật giáo Việt Nam 1963 **hay gọi đơn giản là **phong trào Phật giáo 1963 **là một
**Chấn hưng Phật giáo** hay **Công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam** là một phong trào vận động cho sự phục hưng Phật giáo nhằm tìm lại các giá trị truyền thống và phát
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Việt Nam Quốc Tự** (chữ Hán: 越南國寺) là ngôi chùa tọa lạc tại 244 đường Ba tháng Hai, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh do Hòa thượng Thích Tâm Giác - viện trưởng Viện
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Đạo giáo Việt Nam** là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở
**Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam**, **Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam** hay là **Hệ phái Khất sĩ Việt Nam** là một trong 9 tổ chức thành viên thống nhất thành lập Giáo
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Ngoại giao Việt Nam thời Lê sơ** phản ánh quan hệ ngoại giao của chính quyền nhà Lê sơ với các nước lân bang trong giai đoạn từ năm 1428 đến năm 1527 trong lịch
**Ngoại giao Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh các hoạt động ngoại giao giữa các Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thời kỳ tự chủ Việt Nam (đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000
**Ngoại giao Việt Nam thời Tiền Lê** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Tiền Lê từ năm 980 đến năm 1009 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam** nói về quá trình hình thành và phát triển của dòng nhạc Thánh ca Công giáo tại Việt Nam. ## Lịch sử Khi nói đến bài thánh
Một lớp học chữ Nho **Nho giáo** được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là nền tảng đạo đức giáo dục con người,
**Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia** là một tam giác phát triển nằm ở khu vực ngã ba biên giới của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Phạm vi của
**Phật giáo Việt tông** nên còn được gọi là **Phật giáo An Nam tông**. ## Lịch sử Phật giáo Việt tông sang đến Thái Lan cùng với các thần dân Chúa Nguyễn từ Đàng Trong
**Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam** (tên giao dịch Tiếng Anh: _Joint Stock Commercial Bank for Investment and Development of Vietnam_ ) tên gọi tắt: "**BIDV",** là ngân hàng thương mại
**Ngân hàng Phát triển Việt Nam** (tên giao dịch tiếng Anh: **Vietnam Development Bank**, viết tắt: **VDB**) là tổ chức tín dụng thuộc Chính phủ Việt Nam, được thành lập theo Quyết định 108/2006/QĐ-TTg của
**Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,** thường được gọi tắt là** Bộ trưởng Bộ Ngoại giao** hoặc **Ngoại trưởng** là người đứng đầu Bộ Ngoại giao. Đồng
**Ban Tôn giáo Chính phủ** là cơ quan hành chính trực thuộc Bộ Dân tộc và Tôn giáo, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo quản lý nhà
**Lịch sử Công giáo Việt Nam (1990–2005)** là một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm, tiếp sau giai đoạn 15 năm khó khăn trước đó của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam,
**Học viện Ngoại giao** (tiếng Anh là: Diplomatic Academy of Vietnam - DAV, tiền thân là: Trường Ngoại giao) là đơn vị sự nghiệp hệ công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trực
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
Hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, sửa đổi lần thứ VII tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ IX. Ngày ban hành: 14/03/2023Trong hơn hai nghìn năm hiện diện
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
nhỏ|Bức ảnh này trích trong một chương về [[Ấn Độ trong cuốn _Câu chuyện về các quốc gia của Hutchison_, mô tả Ajatashatru đến thăm Đức Phật để giác ngộ tội lỗi của mình.]] **Phật
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Cải cách thể chế Việt Nam 2024–2025** hay cuộc **Cách mạng tinh gọn bộ máy Việt Nam** là một cuộc cải cách trên quy mô lớn từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam,
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
nhỏ|327x327px|Phụ nữ Việt Nam thời kỳ [[Chiến tranh Việt Nam (miền Bắc, 1954-1959)|chiến tranh (theo học ở Leipzig, Đông Đức).]] **Phụ nữ Việt Nam** là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển
nhỏ|Một tờ Báo Hà Nội mới Dưới đây là **danh sách báo chí Việt Nam** hiện nay, gồm các tờ báo, tạp chí và ấn phụ phẩm đã được cấp phép phát hành. Theo thông
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
nhỏ|Biểu tượng Phật giáo Hòa Hảo nhỏ|phải|Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo [[Huỳnh Phú Sổ]] **Phật giáo Hòa Hảo** là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm Kỷ Mão 1939,