✨Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10

Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10

Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10 phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tôn giáo tại Việt Nam trong khoảng 100 năm từ sau nghìn năm Bắc thuộc, tức là thời Tự chủ đến thời Tiền Lê.

Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đều được truyền vào Việt Nam trong thời Bắc thuộc. Khi Việt Nam giành quyền độc lập, tự chủ, các tôn giáo đó vẫn tiếp tục phát triển, dù ở mức độ khác nhau, nhưng mang tính kế thừa từ thời trước. Do các triều đại Việt Nam thế kỷ 10 đều tồn tại trong thời gian ngắn, các tôn giáo tại Việt Nam không có nhiều biến động hay khác biệt khi triều đại thay đổi và do đó được các nhà nghiên cứu đặt chung vào một giai đoạn xem xét.

Phật giáo

Trong nghìn năm Bắc thuộc, Phật giáo là tôn giáo phát triển nhất và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất do Phật giáo đến bằng con đường hòa bình, không giống như Nho giáo đến bằng con đường chinh phạt cưỡng bức.

Phật giáo dân gian

Phật giáo gắn liền với tín ngưỡng dân gian, được dân gian hóa và phong tục hóa, thể hiện tâm lý, lòng mong ước và thế giới quan của người nông dân trồng lúa nước ở đồng bằng sông Hồng. Phật giáo không chống lại các tục thờ cúng trong đời sống xã hội và tâm lý dân tộc nên được chấp nhận khá dễ dàng.

Phật giáo chi phối đời sống tinh thần từ trong cung đình đến các xóm làng, từ tầng lớp thống trị đến tầng lớp lao động nghèo khổ, tạo thành một đặc trưng văn hóa – lịch sử thế kỷ 10 (và còn kéo dài tới hết thời Trần).

Phật Đản ngày 8 tháng 4 âm lịch của vùng Dâu (Bắc Ninh) là ngày hội tổ chức các lễ nghi nông nghiệp cầu mưa, cầu mùa màng tươi tốt. Tại đây Phật và Pháp và những biểu tượng tín ngưỡng giúp người, giúp đời như thần linh, chứ không phải là Thích Ca Mâu Ni với các lý thuyết nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, niết bàn, tứ khổ đề… Các nhà nghiên cứu kết luận rằng có một dòng Phật giáo dân gian tồn tại trong thời kỳ này và kéo dài tới tận ngày nay. Đây là sự lắp ghép giữa Phật giáo Ấn Độ và văn hóa Việt cổ thành một dòng Phật giáo độc đáo mà nội dung chủ yếu là tín ngưỡng dân gian cổ truyền ở vùng Dâu và một số nơi khác tại miền Bắc Việt Nam có từ trước thế kỷ 10, tiếp tục tồn tại sau đó. Sự lắp ghép này khiến cho Phật giáo Việt Nam vùng Dâu có sức sống lâu dài, còn Phật giáo các vùng khác như Kiến Sơ (Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội), Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) đã phồn thịnh trong nhiều thế kỷ song đã suy tàn trong những thế kỷ cuối thời Bắc thuộc.

Các thiền phái

Hai phái Phật giáo Thiền tông từ Trung Quốc là Tì-ni-đa-lưu-chi (từ cuối thế kỷ 6) và Vô Ngôn Thông (từ đầu thế kỷ 9) tiếp tục là hai thiền phái chính trong thời kỳ này.

Thiền phái Tỳ ni đa lưu chi có những nhà sư nổi tiếng như Đinh La Quý, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, thường sử dụng phù chú Mật giáo. Các cột kinh Phật ở kinh đô Hoa Lư mà Nam Việt Vương Đinh Liễn cho khắc có nội dung cho biết các kinh Mật giáo được thực hành trì chú phổ biến khắp nơi. Mật giáo chấp nhận sự tồn tại của thần linh, có thờ Phật và thờ thần, có tụng kinh, đọc chú. Yếu tố Mật giáo thường được bổ sung do các nhà sư sang học tại Ấn Độ hoặc được truyền từ Chiêm Thành lên. Vua Lê Đại Hành từng dùng nhà sư người Chiêm Thành là Ma ha ma da lấy họ Dương làm quan trong triều.

Thiền phái Vô Ngôn Thông còn gọi là Quan Bích. Trong thế kỷ 10, các nhà sư thiền phái này chịu ảnh hưởng nhiều của Thiền phái Trung Quốc, song yếu tố Mật giáo cũng khá đậm.

Nhà sư đầu tiên tham gia ít nhiều vào chính trị thời kỳ này là Đinh La Quý của thiền phái Tỳ ni đa lưu chi. Hành động chữa long mạch châu Cổ Pháp do Cao Biền phá hỏng trước đó để giúp nước Việt có chân nhân ra giúp nước, tuy ít nhiều mang tính thần bí nhưng phản ánh sự tham chính của Phật giáo, vì vận mệnh độc lập dân tộc. Tuy nhiên, Đinh La Quý không chính thức tham gia việc chính trị với chức danh chính thức. Các nhà sư đầu tiên tham gia chính trị, có chức vụ trong triều đình phong kiến Việt Nam được ghi nhận vào thời Đinh, gồm có Ngô Chân Lưu (dòng dõi Ngô Quyền) và Trương Ma Ni: Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, giữ chức Tăng thống, còn Trương Ma Ni làm Tăng lục . Chức Tăng thống với nhiệm vụ quản lý các sư sãi ở trong nước, được đặt ra từ thời Đinh và được duy trì đến các triều đại sau này.

Ngô Chân Lưu có công giúp Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành việc quốc sự. Theo Thiền uyển tập anh, thời Lê Đại Hành, nhiều việc quân quốc đều được vua Lê giao cho ông. Khi quân Tống tiến sang xâm lược, Khuông Việt giúp Lê Đại Hành trù tính kế hoạch kháng cự.

Nhà sư Pháp Thuận (915-990) cũng rất nổi tiếng, là người đóng vai trò nhà ngoại giao, cùng Ngô Chân Lưu giúp Lê Đại Hành đón tiếp sứ giả nhà Tống là Lý Giác sang Đại Cồ Việt năm 987 . Hơn thế nữa, với tẩm ảnh hưởng lớn trên chính trường, sư Vạn Hạnh còn có vai trò không nhỏ trong việc giúp Lý Công Uẩn thay ngôi nhà Tiền Lê.

Hoạt động của các nhà sư trên chính trường thời kỳ này được xem là những hành động thiết thực cho nước nhà, không hoàn toàn bắt nguồn từ giáo lý triết học của Phật giáo mà từ nhu cầu thực tế của xã hội đương thời. Sự nhập thế thể hiện những đóng góp của Phật giáo đối với dân tộc về các mặt chính trị, ngoại giao, văn hóa và tổ chức xã hội.

Tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo

Thờ thần linh là tín ngưỡng từ lâu đời của người Việt. Kế tục truyền thống nhiều đời trước, người Việt vẫn tôn thờ những hình tượng nguyên sơ như Lạc Long Quân, Chử Đồng Tử, Tản Viên, Sơn Tinh, Phù Đổng Thiên Vương... Những hình tượng này hòa với ảnh hưởng của Đạo giáo du nhập từ thời Bắc thuộc, nên bị Đạo giáo hóa và thần thánh hóa.

Đạo giáo phù thủy hòa quyện với những đền miếu, tín ngưỡng dân gian cổ truyền, thờ cúng những người có công với dân tộc Việt. Dù không có vị trí như đạo Phật nhưng Đạo giáo cũng có chỗ đứng nhất định. Thời Đinh, đạo sĩ Đặng Huyền Quang được vua Đinh Tiên Hoàng trao chức Sùng chân uy nghi .

Sang thời Tự chủ đến các triều Ngô - Đinh – Tiền Lê, vai trò của Nho giáo cũng không cao hơn. Ý thức hệ nho giáo của tầng lớp quan lại cai trị phương Bắc không có vị trí lớn trong xã hội. Tầng lớp nho sĩ không có vai vế trong bộ máy chính quyền các triều đại thời kỳ này.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10** phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tôn giáo tại Việt Nam trong khoảng 100 năm từ sau nghìn năm Bắc thuộc, tức là thời
**Tôn giáo Việt Nam thời Bắc thuộc** phản ánh sự du nhập, phát triền và hòa trộn giữa các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống với ngoại lai trên vùng lãnh thổ Việt Nam
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
nhỏ|phải|Tượng Phật ở [[chùa Long Sơn (Nha Trang)|chùa Long Sơn Nha Trang, dựng năm 1963. Pho tượng này có đặc điểm là khuôn mặt của Đức Phật được tạc theo nét mặt người Việt]] **Phật
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Đạo giáo Việt Nam** là Đạo Giáo đã được bản địa hóa khi du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam. Đạo giáo Việt Nam là một trong ba tôn giáo phổ biến nhất ở
Đây là **biên niên sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975**, thời kì gắn liền với Chiến tranh Việt Nam. ## Thập niên 1940 ### 1945 *Năm 1945: Nạn đói gây ra cái chết của 2
**Học viện Phật giáo Việt Nam** là một hệ thống Đại học Phật giáo Việt Nam của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập từ năm 1981, đặt dưới sự quản lý của
**Ngoại giao Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh các hoạt động ngoại giao giữa các Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thời kỳ tự chủ Việt Nam (đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000
**Thánh Giuse**, là một vị thánh của Kitô giáo. Ông thường được người Việt gọi là **Thánh Giuse Thợ**, hoặc **Thánh Cả Giuse** hay **Giuse thành Nazareth**. Thánh Giuse xuất hiện đầu tiên trong các
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Việt Nam**, quốc hiệu đầy đủ là **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, là một quốc gia nằm ở cực Đông của bán đảo Đông Dương thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
phải|nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily ở Moskva]] **Tôn giáo tại Nga** là một tập hợp các tôn giáo được thành lập trên lãnh thổ Liên bang Nga. Hiến pháp Liên bang Nga hiện hành
nhỏ|Huy Hiệu Hoa Sen**Gia đình Phật tử Việt Nam** (**GĐPTVN**) là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật
**Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam** bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ bí mật
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Đối tác chiến lược, đối tác toàn diện** là cụm từ chỉ quan hệ ngoại giao giữa hai nước với nhau. Quan hệ từ đối tác song phương, đối tác khu vực tới đối tác
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (còn gọi là _"Cờ đỏ sao vàng"_ hay _"Cờ Tổ quốc"_), nguyên gốc là quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
thumb|Một nhà thờ Hồi giáo ở [[thành phố Hồ Chí Minh]] Tuy là một tôn giáo lớn trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, cộng đồng Hồi giáo chỉ chiếm một tỷ lệ thấp so
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
**Việt Nam Quốc Tự** (chữ Hán: 越南國寺) là ngôi chùa tọa lạc tại 244 đường Ba tháng Hai, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh do Hòa thượng Thích Tâm Giác - viện trưởng Viện
**Các thánh tử đạo Việt Nam** là danh sách những tín hữu Công giáo người Việt hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên thánh với lý do tử đạo. Trong
thumb|Bộ Ngoại giao tại Hà Nội Việt Nam hiện nay, dưới chính thể **Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam** đến nay đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 trong 200 quốc
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
Nam-Bắc triều **Nam – Bắc triều** (chữ Hán: 南北朝;1533–1593) là tên gọi của khoảng thời gian nhà Mạc cầm quyền ở tại Thăng Long, gọi là **Bắc triều** và nhà Hậu Lê bắt đầu trung
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề **bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ** được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
nhỏ|Đạo kỳ **Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam** là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên nền tảng là Phật giáo nhưng độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Cải cách thể chế Việt Nam 2024–2025** hay cuộc **Cách mạng tinh gọn bộ máy Việt Nam** là một cuộc cải cách trên quy mô lớn từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam,
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**Giáo dục Việt Nam** dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay) là một sự tiếp nối của giáo dục thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Đài Truyền hình Việt Nam**, được biết đến rộng rãi với tên gọi **VTV** (viết tắt của từ ), là đài truyền hình quốc gia thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối