✨Lịch sử Công giáo Việt Nam (1975–1990)

Lịch sử Công giáo Việt Nam (1975–1990)

Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990 có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng giáo phẩm Công giáo tại Việt Nam năm 1960. Lịch sử của Giáo hội tại Việt Nam trong giai đoạn này có sự khác biệt rõ rệt so với giai đoạn 1960 đến 1975, vì hoàn cảnh chiến tranh Việt Nam và sự phân chia không chính thức trong nội bộ Giáo hội Công giáo thành hai miền Việt Nam đã chính thức chấm dứt. Cùng chia sẻ quy mô địa lý và thể chế chính trị, bối cảnh chính là điểm nhấn tạo nên sự khác biệt với giai đoạn kề sau, từ năm 1990 đến năm 2005, là giai đoạn cải cách và mở cửa của Việt Nam trong lĩnh vực tôn giáo.

Sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một bước ngoặt trong dòng lịch sử Việt Nam, và dấu mốc lịch sử này cũng là bước chuyển mình lịch sử của Giáo hội Công giáo tại quốc gia này. Lần đầu tiên kề từ sau Công đồng Vatican II cải tổ Giáo hội Công giáo toàn cầu vào giữa thập niên 1960, hàng giáo phẩm Công giáo tại hai miền Việt Nam chính thức tiếp xúc, chuẩn bị cho sự tồn tại và phát triển của Giáo hội trong bối cảnh có nhiều thay đổi. Nhiều giáo sĩ thuộc về phía bại trận đã chuẩn bị cho giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân của mình cách thức sống đạo trong môi trường mới. Trong vòng năm năm sau dấu mốc lịch sử năm 1975, với hai hồng y đầu tiên được trao tước vị, nhu cầu về một Hội đồng Giám mục Việt Nam toàn quốc được nhen nhóm. Sau nhiều chuẩn bị, tháng 4 năm 1980, Hội đồng đã cải tổ Hội đồng Giám mục cũ tại miền Nam, thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam mới, bao gồm các giám mục Công giáo tại Việt Nam trên toàn quốc. Các giám mục thuộc về ba giáo tỉnh, đã chính thức hội họp Đại hội lần Thứ Nhất, đề ra định hướng mới cho Giáo hội Công giáo tại Việt Nam.

Đối mặt với nhiều thay đổi, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn: các chủng viện bị đóng cửa, các tổ chức từ thiện, y tế và giáo dục của Giáo hội tại miền Nam bị tịch thu và đóng cửa. Khâm sứ Tòa Thánh bị trục xuất, nhiều giáo sĩ bị đưa đi thẩm vấn, học tập cải tạo cho đến cuối thập niên 1980, trong khi việc truyền chức, thuyên chuyển linh mục và giám mục gặp nhiều trở ngại. Nhiều xung đột mang tính cách chính trị và tôn giáo diễn ra căng thẳng trong giai đoạn 1975 đến năm 1990. Các chủng viện dần được mở lại trong thập niên 1980, trong khi vấn đề nhân sự giáo sĩ cấp giám mục là vấn đề gây tranh cãi giữa chính quyền và giáo hội. Trong thập niên 1980, các giám mục Việt Nam được chính quyền cho phép tham dự các Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, các chuyến viếng thăm nghĩa vụ Ad Limina.

Trong dòng lịch sử của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, giai đoạn lịch sử Giáo hội Công giáo 1975 đến năm 1990 kết thúc bằng sự qua đời của Hồng y, Tổng giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Văn Căn. Đối với chính quyền Việt Nam, sự thay đổi trong quan điểm và cách quản lý tôn giáo qua Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị năm 1990 đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong công tác tôn giáo nói chung và nói riêng là cho Giáo hội Công giáo, tiến đến việc mở đường cho các buổi tiếp xúc, gặp gỡ và trao đổi công việc với các quan chức Tòa Thánh kể từ năm 1991.

Sinh hoạt tôn giáo trong năm 1975

Công giáo miền Nam năm 1975, trước sự kiện 30 tháng 4

Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, trưởng [[Giáo tỉnh Sài Gòn, ảnh chụp ngày 11 tháng 9 năm 1966]] Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Tòa Thánh thông báo Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm Tổng giám mục Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình làm thành viên Bộ Tuyên Thánh, trực thuộc Giáo triều Rôma. Trong tình cảnh chiến sự vào tháng 3 năm 1975, nhiều tin tức [không chính xác] về tình hình của các giáo sĩ được đưa ra. Tờ Quan sát viên Rôma ngày 18 tháng 3 dẫn lời xác nhận Linh mục Giuse Trịnh Chính Trực đã bị giết, hai giám mục Phêrô Nguyễn Huy Mai và Phaolô Nguyễn Văn Hòa không rõ tung tích. Ngày 19 tháng 3 năm 1975, Tòa Thánh chỉ định Giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi làm Giám quản Tông Tòa Giáo phận Phan Thiết mới thành lập. Ngày 6 tháng 4 năm 1975, nguồn tin từ Linh mục Raymond de Jaegher được công bố trên báo National Catholic Register khẳng định hai giám mục Nguyễn Huy Mai, Nguyễn Văn Hòa, cùng 11 linh mục đã bị hành quyết. Ngày 14 tháng 4, phát ngôn viên Tòa Thánh, Federico Alessandrini cho biết chưa thể kiểm chứng tin tức kể trên từ Tòa Khâm sứ, dù Linh mục Jaegher khẳng định ông có nguồn tin trực tiếp có hiểu biết về vụ việc.

Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Philípphê Nguyễn Kim Điền đã cho phổ biến thư mục vụ bày tỏ lòng vui mừng về việc kết thúc chiến tranh trước đó vào ngày 1 tháng 4, sau khi quân giải phóng chiếm thành công Thành phố Huế trước đó vào ngày 26 tháng 3 năm 1975. Tổng giám mục Điền cũng đã tham dự lễ ra mắt Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thành phố Huế vào ngày 9 tháng 4, và phát biểu bày tỏ tin tưởng Mặt trận đảm bảo các quyền tự do, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Trả lời phỏng vấn của kênh truyền thông AFP của Pháp vào ngày 3 tháng 4 năm 1975, Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình khẳng định các giám mục trong Hội đồng Giám mục [miền Nam] Việt Nam đã nhất trí ở lại giáo phận của mình, và hàng giáo phẩm Công giáo không tổ chức di tản các giáo dân. Nhiều tin đồn về việc các giáo sĩ quyết định tổ chức di cư đã nổ ra, tuy đã bị Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình bác bỏ vào ngày 8 tháng 4 cùng năm. Tác giả Trần Ngọc Báu nhận định rằng hai Tòa Tổng giám mục Huế và Sài Gòn đã góp công ổn định tình hình và trấn an các giáo dân Công giáo trong những ngày cuối của cuộc chiến nhằm hạn chế đổ máu.

Về phía giáo dân Công giáo, trong bức thư đợt I gồm 102 chữ ký của nhiều tầng lớp giáo dân để ngày 19 tháng 4 năm 1975 với tên gọi Tuyên ngôn về vấn đề di cư ra nước ngoài, họ tỏ ý lo ngại về ý đồ của Mỹ nhằm lặp lại cuộc di cư năm 1954. Họ khẳng định quê hương duy nhất của người Việt Nam là nước Việt Nam, lên án các mưu đồ di cư của Mỹ mang ý định chính trị, hưởng ứng Thư Chung của Tòa Tổng giám mục Sài Gòn ngày 8 tháng 4, và ở lại Việt Nam để đóng góp vào việc hòa giải dân tộc. Trong táng 4 năm 1975, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình năm lần yêu cầu Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giám mục Nha Trang làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn. Tòa Khâm sứ chuyển lời và Tòa Thánh đã bổ nhiệm tân tổng giám mục phó ngày 24 tháng 4. Tại Giáo phận Kon Tum, Tòa giám mục đã thực hiện việc đốt tất cả các tài liệu quý của mình vào ngày 28 tháng 4, hơn một tháng sau khi địa phương này đặt dưới sự quản lý của chính quyền mới. Cá nhân ông Phan Minh Tánh, trưởng Ban Dân vận Trung ương đã phát biểu vào năm 1988, sau năm 1975, không hề có "trả thù" và "tắm máu" như tuyên truyền, chỉ có xây dựng, thương yêu, đoàn kết. Ông cho rằng đây là một điều hiếm có đối với một nước chiến thắng đối với các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là tổ chức tôn giáo có dính máu với đối phương. Dấu mốc lịch sử này đã khiến giới tu sĩ Công giáo trở thành một nhóm người "lạ mặt khả nghi", vì giới tu sĩ phổ biến ở miền Nam, trong khi ở miền Bắc lại không phổ biến. Riêng Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình phát hành thư chung gửi giáo sĩ và giáo dân, trong đó cho biết việc chiến tranh chấm dứt, hòa bình lập lại và niềm vui chung cho cả dân tộc và là "hồng ân của Thiên Chúa". Giám mục Bùi Tuần, trong lễ truyền chức giám mục cho chính mình vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã bị lực lượng quân đội cách mạng tiến vào nhà thờ, yêu cầu giam giữ và tử hình. Bản thân Giám mục Bùi Tuần đã đứng trước họng súng. Với việc nghi ngờ tân giám mục do CIA cài cắm ở lại Việt Nam, Bùi Tuần bị thẩm vấn, tuy có phần dịu nhẹ hơn khi nhóm quân nhân này, nhờ các bản ghi, biết rằng Giám mục Tuần kêu gọi giáo dân không cộng tác với người nước ngoài, người dân và quân lính Việt Nam Cộng hòa ra đầu thú và kêu gọi giúp đỡ chính quyền cách mạng. Bản thân tân giám mục là người cắm cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trên mái nhà thờ.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dương, tuy số lượng giáo dân di tản sau năm 1975 là ít, tuy vậy tinh thần của các giáo hội địa phương tại miền Bắc chưa có nhiều biến chuyển, do chưa tiếp cận được tinh thần của Công đồng Vatican II. Theo Linh mục Giuse Lê Công Đức, PSS viết trên trang Hội đồng Giám mục Việt Nam, [sau năm 1975], hàng trăm nghìn người đã di tản ra khỏi Việt Nam, trong đó tỉ lệ người Công giáo là đáng kể đến. PGS. TS Đỗ Quang Hưng cho biết làn sóng di tản (sau gọi là thuyền nhân) bao gồm khoảng 130.000 tín đồ Công giáo, trong đó có hàng trăm linh mục và tu sĩ. Khác với năm 1954, không có bất kỳ giám mục nào quyết định di tản sau dấu mốc lịch sử ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì khác với quan điểm trước đó của Giáo hoàng Piô XI về chủ nghĩa Cộng sản, các giám mục của thập niên 1970 và 1980 tin rằng họ có khả năng phục vụ giáo hội dưới sự cai trị của chế độ Cộng sản.

Trang tin Truyền giáo Việt Nam tại Á Châu nhận định Nhà nước Việt Nam đã cho tổ chức nhóm linh mục quốc doanh để hỗ trợ các chính sách của Đảng, thông qua tờ báo "Công Giáo và Dân Tộc". Nhóm này được nhận định đã góp phần đuổi Khâm sứ Tòa Thánh Henri Lemaître ra khỏi Việt Nam, cũng như trong việc giam giữ Tổng giám mục phó Sài Gòn Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngày 30 tháng 6, báo Nhân Dân đưa tin hai tân giám mục được tấn phong, là các giám mục Đa Minh Lê Hữu Cung và Phêrô Phạm Tần.

Sau sự kiện thống nhất Việt Nam, bản thân Giáo hội Công giáo tại Việt Nam lần đầu tiên phải tự lực, khi các nhà truyền giáo ngoại quốc rời khỏi Việt Nam hoặc bị trục xuất. Viện trưởng Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt là Linh mục Dòng Tên Jose Diego bị trục xuất cùng với 12 linh mục Dòng Tên khác, 4 nhà truyền giáo dòng Saledieng Don Bosco, 1 linh mục Dòng Phanxicô người Pháp và 1 linh mục của Hội Truyền giáo Paris ngày 3 tháng 9 năm 1975. Trả lời NC News tại Rôma, Linh mục Diego cung cấp góc nhìn của ông về tình trạng tại miền Nam Việt Nam: Tình trạng quản chế nghiêm ngặt Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận; dùng các lớp chính trị để tấn công tôn giáo trực tiếp; yêu cầu danh sách tân linh mục để chấp thuận trước truyền chức tại hai giáo phận; theo dõi giáo đồ Công giáo tham dự lễ Chúa Nhật và không cho cử hành lễ ngày thường; hạn chế đi lại của giáo sĩ và tu sĩ; phân biệt trong tuyển dụng với người Công giáo. Trường hợp của Tổng giám mục Thuận, chính phủ cho biết họ đã yêu cầu ông từ chức, và do ông từ chối, họ [quyết định] hạn chế các hoạt động của ông. Linh mục Champoux người Canada cũng cho biết mật thám của chính quyền tham dự mọi thánh lễ tại Đà Lạt để báo cáo về các tín đồ tham dự.

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, linh địa Đức Mẹ La Vang, trung tâm hành hương Công giáo toàn quốc từ năm 1961, bị quân đội chiếm đóng trong khoảng một năm. Trong hoàn cảnh này, việc hành hương thường niên năm 1975 cùng các cuộc hành hương thường lệ khác vẫn được tổ chức. Việc bổ nhiệm tân Tổng giám mục phó Nguyễn Văn Thuận được chính thức công bố ngày 12 tháng 5, trong khi vị tân chức trú tại Nhà thờ Xóm Chiếu chờ sắp chỗ ở tại Tòa Tổng giám mục Sài Gòn. Chính quyền phản đối tin bổ nhiệm này. Tổng giám mục Thuận bị đưa ra khỏi Sài Gòn ngày 15 tháng 8 năm 1975. Cùng trong tối ngày này, công an đến bắt Tổng giám mục Thuận đến quản thúc tại giáo xứ Cây Vông, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Tổng giám mục Bình trình bày hoàn cảnh này trong văn thư ngày 18 tháng 8, xác nhận Uỷ ban Quân quản đã chuyển Tổng giám mục Thuận đến Nha Trang.

Cơ sở từng thuộc Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà LạtHai mươi ba giám mục Việt Nam đã gặp mặt và ra thông cáo chung vào ngày 20 tháng 12 năm 1975. Các giám mục, linh mục và giáo dân đã tìm hiểu về các chủ đề: các tương quan trong xã hội mới, nghiên cứu nội bộ miền Nam và tìm hiểu việc huấn luyện các tín đồ. Đây là lần đầu tiên các giám mục Công giáo tại Việt Nam họp sau khi kết thúc chiến tranh, với các phiên họp từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 12, được tổ chức tại Sài Gòn. Cũng theo tường thuật của Linh mục Vũ Khởi Phụng, 21 giám mục tại miền Nam tề tựu đông đủ, chỉ thiếu giám mục Giáo phận Mỹ Tho vì lý do sức khỏe. Các giám mục đã gặp gỡ và bàn thảo nhiều vấn đề với các đại diện chính quyền cách mạng, trong đó có các vấn đề về hòa hợp và hòa giải dân tộc, chính sách tôn giáo. Sau hội nghị, một thông cáo được ban hành, điện văn gửi đến Giáo hoàng Phaolô VI và điện văn gửi đến Tổng giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê bày tỏ tâm tình đoàn tụ với Giáo hội Công giáo tại miền Bắc.

Về mặt nhân sự giám mục quản lý các giáo phận

Theo Giám mục Paul Seitz Kim viết trong sách Le temps des chiens muets (Thời điểm của những con chó câm), từ khoảng năm 1972, lo ngại tình hình tương tự Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc, Tòa Thánh đã chuẩn thuận cho các giám mục đặc quyền để chọn giám mục kế vị. Bản thân Giám mục Kim, khi chọn giám mục kế vị, đã đưa thư ủy quyền của Tòa Thánh cho vị tân giám mục. Bản dịch sách trên ghi nhận vị kế vị nhận chức giám mục phụ tá với quyền kế vị. Giám mục Giáo phận Đà Lạt Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm cũng từng nhắc đến năng quyền chọn và phong giám mục phó trong thư gửi các linh mục vào tháng 6 năm 1975. Không có giám mục phó nào được bổ nhiệm cho Đà Lạt cho đến tận năm 1991.

Theo Trần Anh Dũng, trong tình hình chiến sự, Tòa Thánh bổ nhiệm và tấn phong các giám mục phó với quyền kế vị để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Giáo hội Công giáo Việt Nam có 12 tân giám mục được bổ nhiệm trong năm 1975, và tổng cộng có 13 tân giám mục được cử hành nghi lễ tấn phong trong cùng năm. Song song với việc bổ nhiệm, trong cùng năm 1975, không có giám mục Việt Nam nào qua đời. Ngoài các tân giám mục, Tòa Thánh còn thuyên chuyển một số giám mục Công giáo tại Việt Nam và thiết lập tân Giáo phận Phan Thiết vào ngày 30 tháng 1 năm 1975. Tân giáo phận được phân tách từ Giáo phận Nha Trang, được đặt trực thuộc Giáo tỉnh Sài Gòn. Thông tin này chính thức được công bố ngày 15 tháng 2 và Tòa Thánh đã đưa ra lý do phân tách là vì Giáo phận Nha Trang có địa bàn rộng lớn và sự khác biệt giữa các sắc dân thuộc giáo phận [cũ]. Giám mục Tiên khởi Phan Thiết Nguyễn Văn Hòa sau đó lại được thuyên chuyển đến Giáo phận Nha Trang, thay Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được thăng Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn vào ngày 24 tháng 4 năm 1975. Lễ bàn giao giữa Giám mục Hòa và Tổng giám mục Thuận diễn ra vào ngày 7 tháng 5, và Tổng giám mục Thuận đến Sài Gòn một ngày sau đó. Báo Catholic Advocate, đề ngày 4 tháng 9 cùng năm đề cập đến thông tin Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã bị quân đội Cộng sản giết chết.

Trong suốt lịch sử Giáo hội Công giáo tại Việt Nam kể từ năm 1933 khi có giám mục bản xứ đầu tiên, năm 1975 vẫn là năm có nhiều tân giám mục nhất, tính đến hết năm 2024. Số lượng tân giám mục tính riêng trong năm này cũng đã vượt tổng số tân giám mục người Việt Nam trong giai đoạn 10 năm liền trước (từ năm 1965 đến hết năm 1974). Các tân giám mục được bổ nhiệm vào năm 1975 đều ở tuổi đời rất trẻ, trong khoảng từ 39 tuổi đến 56 tuổi, trừ tân giám mục Lê Hữu Cung của Giáo phận Bùi Chu.

;Các giám mục người Việt Nam được bổ nhiệm vào năm 1975, với ngày bổ nhiệm từ GCatholic và tân giám mục Tiên khởi giáo phận Phan Thiết Phaolô Nguyễn Văn Hòa, sinh tháng 7 năm 1931 ( tuổi).

  • Ngày 27 tháng 03, tân Giám mục phó giáo phận Ban Mê Thuột Alexis Phạm Văn Lộc, sinh tháng 03 năm 1919 ( tuổi). Giám mục Lộc đã kế vị giám mục chính tòa vào tháng 10 năm 1975.
  • Ngày 15 tháng 04, tân Giám mục phó giáo phận Long Xuyên Gioan Baotixita Bùi Tuần, sinh tháng 01 năm 1927 ( tuổi). Thông tin này chính thức được công bố ngày 21 tháng 04.
  • Ngày 28 tháng 04, tân Giám mục giáo phận Bùi Chu Đa Minh Lê Hữu Cung, sinh tháng 3 năm 1898 ( tuổi).
  • Ngày 07 tháng 05, tân Giám mục phó/phụ tá giáo phận Bắc Ninh Đa Minh Đinh Huy Quảng, sinh tháng 03 năm 1921 ( tuổi) và tân Giám mục phó giáo phận Cần Thơ Emmanuel Lê Phong Thuận, sinh tháng 12 năm 1930 ( tuổi).
  • Ngày 06 tháng 06, tân Giám mục phó giáo phận Đà Nẵng Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách, sinh tháng 05 năm 1925 ( tuổi) và tân Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho Anrê Nguyễn Văn Nam, sinh tháng 02 năm 1922 ( tuổi).
  • Ngày 16 tháng 07, tân Giám mục phó giáo phận Xuân Lộc Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, sinh tháng 09 năm 1926 ( tuổi).
  • Ngày 15 tháng 08, tân Giám mục phó giáo phận Vĩnh Long Raphael Nguyễn Văn Diệp, sinh tháng 10 năm 1926 ( tuổi).
  • Ngày 07 tháng 09, tân Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể, sinh tháng 12 năm 1935 ( tuổi).

;Giáo hội Công giáo tại Việt Nam trong năm 1975 còn có sự thuyên chuyển các giám mục đương nhiệm:

  • Ngày 19 tháng 03, thuyên chuyển Giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi, tấn phong năm 1974, phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn kiêm giám quản Tông Tòa Giáo phận Phan Thiết.
  • Ngày 24 tháng 04, thăng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tấn phong năm 1967, giám mục Giáo phận Nha Trang, thăng tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn.
  • Ngày 25 tháng 04, thuyên chuyển Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa, tấn phong năm 1975, giám mục Tiên khởi Giáo phận Phan Thiết, làm giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang.

Giai đoạn 1976–1980

Tình hình chung

Hồng y Trịnh Văn Căn (hàng đầu, thứ ba từ trái) trong lễ tấn phong tân Giám mục [[Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương]] Những năm cuối thập niên 1970 đối với Giáo hội Công giáo Việt Nam là những năm đầy thách thức đối với đời sống của giáo dân Công giáo. Trên thực tế, sau năm 1975, trừ Công giáo và Phật giáo hai miền thống nhất về cơ cấu tổ chức, các tôn giáo khác tại Việt Nam chưa được chính thức công nhận. Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Dương đánh giá rằng các quan điểm, chính sách với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1990 là còn nhiều bất cập và chưa đột phá. Ông ghi nhận rằng có khuynh hướng xóa bỏ tôn giáo, có khi vi phạm chính sách tôn giáo cách thô bạo. Sau khi tham dự đoàn đại biểu từ miền Nam đến thăm miền Bắc, Linh mục Chân Tín cho bài đăng trên tạp chí Đứng Dậy. Ông bày tỏ quan điểm của giới Công giáo, rằng "Chủ nghĩa Xã hội Mác - Lênin nhìn Thiên Chúa giáo như một ảo tưởng, nên nếu Nhà nước có ban Sắc lệnh tự do tôn giáo, thì đó chỉ là một cái gì đó tạm thời mà thôi."

Trên thực tế, dù hai miền Nam Bắc đã thu về một mối sau năm 1975, Giáo hội Công giáo hai miền Bắc và Nam rất chậm trong việc gặp gỡ và trao đổi thông tin, vì lý do hành chính và lý do giao thông. Đời sống tôn giáo ở hai miền Việt Nam trên thực tế là có nhiều khác biệt. Sau tháng 4 năm 1975, tôn giáo nói chung phải tuân theo những quy định của nền kinh tế tập trung, các đoàn thể Công giáo phải tạm ngưng cho đến thời Đổi Mới mới chính thức hoạt động theo thủ bản. Trên thực tế, vai trò của giáo dân miền Nam sau năm 1975 được ghi nhận, thông qua việc quản lý và các nhóm học Kinh Thánh.

Tác giả Lan Chu nhận định việc đàn áp giáo hội Công giáo, sau năm 1975, đã dần lan rộng đến miền Nam, trong khi kinh nghiệm và nguồn lực của giáo hội tại Việt Nam Cộng hòa có khả năng giúp ích cho giáo hội Công giáo tại miền Bắc, dưới quyền quản lý của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy giáo hội đã thống nhất sau năm 1975, ý thức hệ của hai miền dẫn đến tình trạng chia rẽ trong nội bộ giáo hội, tuy chia rẽ này được giữ ở mức nội bộ, không công khai trong các tuyên bố chính thức. Giáo hội tại miền Nam thiên về đối thoại với Nhà nước, với lý do vận dụng Công đồng Vatican II, trong khi Giáo hội tại miền Bắc phản đối đối thoại với Nhà nước, cũng theo tác giả Lan Chu. Sau năm 1975, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam không ủng hộ nhưng cũng không tham gia về mặt chính trị để chống lại chính quyền. Thái độ cộng tác với chính quyền mới của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình gây sốc cho nhiều người, vì đại đa số giáo dân Công giáo miền Nam cho rằng chủ nghĩa Cộng sản là mối đe dọa cho nhân loại.

Viết trong sách Dấu ấn 50 năm Hàng Giáo phẩm Việt Nam, tác giả Nguyễn Đình Đầu công bố rằng Hội đồng Giám mục Việt Nam tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, trong giai đoạn từ 1975 đến 1980 đã đổi tên thành Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam. Hội đồng Giám mục [Miền Nam] Việt Nam công bố Thư Mục vụ vào ngày 16 tháng 7 năm 1976, cho rằng “Người Công giáo kề vai chung sức với mọi người để xây dựng đất nước và làm những gì đem lại lợi ích chung cho cộng đồng dân tộc mà không nghịch với đức tin và lương tâm Kitô giáo”. Theo tác giả Nguyễn Văn Thuyên, trong các cuộc gặp với Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong năm 1976 với Tổng giám mục Điền (1 tháng 9); Tổng giám mục Bình và Giám mục Nguyễn Ngọc Quang (22 tháng 9), các giám mục bày tỏ lòng tin tưởng chính phủ và "hứa làm cho giáo dân cộng tác" với người dân trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Tác giả Nguyễn Văn Thuyên, viết trên trang Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam cho biết qua việc đọc thư chung của các giám mục năm 1976, ông cho rằng "cách mạng tôn trọng sự tự do của tín hữu". Cũng theo ông, Giáo hội Công giáo đã hiến các trường tư thục để hỗ trợ [Nhà nước] trong việc giáo dục miễn phí cho trẻ em. Các giám mục hai miền Nam Bắc còn gặp nhau thêm một lần nữa trong cuộc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh (tên mới của Sài Gòn) vào năm 1978. Trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1980, Giáo hội Công giáo Việt Nam có chín tân giám mục được bổ nhiệm, so với con số 12 tân giám mục trong riêng năm 1975. Cũng trong giai đoạn 5 năm này, hai giáo sĩ được phong tước Hồng y. Trong đó, Hồng y đầu tiên đến từ quốc gia này, Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê (ban đầu được ban tước vị dưới hình thức mật phong in pectore) vào năm 1976; và hồng y thứ hai, Tổng giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Văn Căn (vào năm 1979). Hồng y Trịnh Như Khuê đã tham dự hai mật nghị Hồng y năm 1978, và việc truyền tin tức về cái chết của Giáo hoàng Phaolô VI đến vị hồng y được thừa nhận là gặp khó khăn. Nghị quyết 297-NQ/CP có một số quy định về tôn giáo tại Việt Nam: hoạt động tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo, không gây mất trật tự, trở ngại cho sinh hoạt đời sống và sản xuất của giáo hữu; các giáo sĩ tự do giảng đạo tại các cơ sở, cấm việc tuyên trình chia rẽ, mê tín, đồng thời có nhiệm vụ giáo dân thực hiện nghĩa vụ công dân, chấp hành các chính sách và pháp luật; Uỷ ban Nhân dân quản lý các nơi thờ tự bị bỏ hoang, không được dùng vào các việc xúc phạm tín ngưỡng, tháo dỡ cần sự chấp thuận của Uỷ ban Nhân dân cấp trên và người dân; giáo sĩ được thuyên chuyển, bổ nhiệm, phong chức cần phải được chính quyền chấp nhận; cho phép xuất bản tài liệu tôn giáo, sản xuất đồ thờ cúng. Trên thực tế, thiếu các văn bản hướng dẫn khiến việc thực hiện nghị quyết thiếu thống nhất tại Việt Nam. Tiến sĩ Ngô Xuân Đông, viết trên báo Thanh Tra, nhận định rằng việc thực thi quyền tự do tôn giáo vẫn còn một số hạn chế, việc đào tạo chức sức sắc tôn giáo, in ấn các ấn phẩm tôn giáo còn gặp khó khăn. Ông cho rằng có một số nguyên nhân: đánh giá tôn giáo bằng ý thưc hệ, cảnh giác giặc nội và ngoại xâm [trong tôn giáo], đây là thời kỳ xác lập quan hệ tôn giáo và nhà nước và đánh giá tôn giáo theo góc nhìn chính trị, về đoàn kết dân tộc. Bốn nguyên nhân này làm giảm đi sự đóng góp của các tôn giáo trong xã hội. Ông thừa nhận có giai đoạn hạn chế các cơ sở tôn giáo làm cho tôn giáo mất đi vai trò vốn có trong xã hội. Theo tác giả An Dang, các cơ sở tôn giáo đã bị tịch thu hoặc chuyển giao dưới sức ép của chính quyền.

Tình hình tại một số giáo phận

Giáo tỉnh Hà Nội

*Tổng giáo phận Hà Nội: Tổng giám mục Trịnh Như Khuê được phong tước hồng y theo phương thức mật phong (in pectore), trở thành giáo sĩ đầu tiên nhận tước vị này. Trở về Việt Nam, tân hồng y đã có cuộc gặp với Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng. Báo cáo mật từ Rôma thông tin việc thăng tước hồng y đã được thảo luận trước với chính quyền Việt Nam hai năm trước đó; trong khi vì giữ bí mật, tân hồng y không được cho phép mặc phẩm phục đỏ từ trước. Hồng y Trịnh Như Khuê không đồng ý tham gia cùng với các chính trị gia trong các cuộc tuần hành công cộng. Hồng y Khuê được linh mục Dòng Tên người Canada Andre Gelinas đánh giá là có thái độ không khoan nhượng với chính quyền mang tư tưởng Cộng sản. Hồng y Khuê qua đời, Tổng giám mục kế nhiệm Trịnh Văn Căn sau đó được phong tước hồng y vào năm 1979. Trong thời gian tại Rôma vào năm 1985, Hồng y Căn xúc tiến tiến trình tôn phong các thánh tử đạo Việt Nam. Trong suốt thời gian tranh chấp đất đai với chính quyền, trong suốt thập niên 1980, Hồng y Căn bị làm phiền bởi các tiếng nhạc được cố ý cho phát, vì khu Tòa Khâm sứ bị cho xây dựng thành Cung Văn hóa, và được sử dụng làm sàn nhảy với âm nhạc công suất lớn được mở đến hai giờ sáng. Trong các thập niên 1950 đến 1980, Tòa giám mục bị canh gác gắt gao nhằm cản trở giáo dân tiếp tế cho các giáo sĩ và cá nhân Tổng giám mục Khuê bị cấm đi khỏi Tòa giám mục nếu không có phép [từ chính quyền].

Giám mục Bắc Ninh [[Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, sau là Hồng y, Tổng giám mục Hà Nội]] *Giáo phận Bắc Ninh: Trong gần 30 năm đảm nhận vai trò giám mục Bắc Ninh, Giám mục Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng không thể đến thăm các giáo họ và giáo xứ. Ông thường xuyên phải cử hành lễ tại một căn phòng 8 mét vuông. Cũng chính trong căn phòng này, Giám mục Tụng đã truyền chức bí mật cho các linh mục thuộc và không thuộc giáo phận Bắc Ninh, cũng như hai tân giám mục. Tân Giám mục Đa Minh Đinh Huy Quảng được tấn phong giám mục cách bí mật vào ngày 4 tháng 5 năm 1975, sau đó ba ngày bị đưa đi quản thúc và qua đời vào năm 1992. Chức giám mục của ông chỉ được công bố 15 năm ông qua đời, vào năm 2007.

*Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng: Giám mục tân cử Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ, được bổ nhiệm từ năm 1960, không được cho phép rời khỏi phạm vi 5km kể từ thị trấn Thất Khê, nơi ông quản nhiệm với tư cách là một linh mục. Do đó, ông được chính thức tấn phong chức giám mục vào năm 1979, khi ông tách khỏi dòng người tị nạn để đến Bắc Ninh. Tuy đã chính thức là giám mục vào năm 1979, chính quyền Việt Nam chỉ công nhận ông là giám mục vào năm 1989 sau khi Hồng y Roger Etchegaray đến làm việc với chính phủ Việt Nam. Nguồn tin từ sách Thoáng nhìn Giáo hội Công giáo Việt Nam của Trần Anh Dũng cho biết việc công nhận là nhờ thương thảo giữa Việt Nam và Tòa Thánh vào cuối tháng 11 năm 1991.

*Giáo phận Bùi Chu: Tân Giám mục Đa Minh Lê Hữu Cung được bổ nhiệm quản lý giáo phận, ở tuổi 77 vào cuối tháng 4 năm 1975. Ông cũng truyền chức linh mục cách bí mật một lần nữa vào tháng 6 năm 1979. Việc truyền chức linh mục [cho Bùi Chu] còn được trao phó cho các giám mục khác. Ông kêu gọi giáo dân tu trì trở thành linh mục, thu được 400 đơn vào năm 1980. Do tuổi cao, Giám mục Cung đã xin Tòa Thánh bổ nhiệm giám mục phó, và Linh mục Giuse Maria Vũ Duy Nhất, Tổng Đại diện Giáo phận Bùi Chu trở thành giám mục vào tháng 7 năm 1979.

*Giáo phận Phát Diệm: Giám mục Phaolô Bùi Chu Tạo là Giám mục, trong khi Giám mục phó Nguyễn Thiện Khuyến đảm trách chức vụ trong 4 năm, từ năm 1977 đến năm 1981. Do không được đến thăm các giáo xứ, bị quản chế nghiêm ngặt tại Nhà Chung (Tòa giám mục) và khu vực Lưu Phương. Giám mục Tạo quản lý giáo phận qua các Thư mục vụ. Ngoài các chủ đề về tôn giáo, ông cũng có một số thư về chủ đề chính trị và xã hội: Thư về Quốc Khánh Việt Nam năm 1975, về Quốc hội Việt Nam năm 1976, chống Trung Quốc xâm lược năm 1979, bàn về thực tại trần thế và vai trò người giáo dân năm 1987, về việc cứu đói các năm 1984 và 1988. Giám mục Tạo nhận huân chương Chữ Thập Đỏ do tham gia các hoạt động thiện nguyện do chính phủ tổ chức. Cá nhân Giám mục phó Khuyến có lúc phải quản lý cùng lúc 9 xứ đạo vì tình trạng thiếu linh mục (có giai đoạn ông quản lý 6 xứ đạo).

[[Nhà thờ chính tòa Xã Đoài khánh thành năm 1979, ảnh chụp năm 2021]] *Giáo phận Hưng Hóa: Thời kỳ Giám mục Phêrô Nguyễn Huy Quang, kéo dài đến năm 1985 là thời kỳ khó khăn của Giáo phận Hưng Hóa, bản thân giám mục không được thăm các giáo xứ, kể cả giáo xứ quê nhà Bến Thôn (không được cho vào nhà thờ), thiếu linh mục. Nhiều nhà thờ bị phá hủy do chiến tranh và do bị chiếm đoạt làm kho thóc cho các hợp tác xã và trường học. Các trường đào tạo Công giáo bị cho đóng cửa, không cho in và tịch thu các ấn phẩm sách đạo Công giáo. Website Giáo phận Hưng Hóa đánh giá Các hoạt động tôn giáo bị chính quyền hạn chế tối đa.

*Giáo phận Thái Bình: Giám mục Đa Minh Đinh Đức Trụ không thể đến thăm giáo dân giáo phận cách chính thức. Do đó, ông thường giả làm tiều phu, ăn xin và người bán lợn để đến thăm giáo dân.

*Giáo phận Hải Phòng và Giáo phận Vinh: Giám mục Phêrô Maria Khuất Văn Tạo đã viết di chúc từ năm 1974, sức khỏe suy yếu, kém minh mẫn và bị tai biến vào năm 1977. Ông qua đời vào tháng 8 năm 1977. Giáo phận sau đó có tân Giám mục Giuse Maria Nguyễn Tùng Cương, tấn phong tháng 2 năm 1979. Cùng bổ nhiệm trong cùng ngày với Giám mục Cương có tân Giám mục giáo phận Vinh Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp. Bản thân Giám mục Tân cử Hạp đã thực hiện nghi thức cung hiến Nhà thờ chính tòa Xã Đoài vào ngày 3 tháng 3, trong khi tân giám mục được truyền chức một ngày sau đó.

Giáo tỉnh Huế

*Tổng giáo phận Huế: Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Philípphê Nguyễn Kim Điền gấp rút trở về Huế một ngày trước khi thành phố này thay đổi chính quyền. Ông cũng kêu gọi Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý đến sinh hoạt tôn giáo cùng ông trong địa bàn Tổng giáo phận. Tổng giám mục Điền sử dụng "năng quyền đặc biệt" để tấn phong Tổng giám mục phó Stêphanô Nguyễn Như Thể. Cá nhân tổng giám mục thông qua thư ký là Linh mục Lý soạn thư mời các giáo sĩ và tu sĩ trước đó đã rời Huế nhưng bị kẹt lại tại Đà Nẵng trở về với giáo phận. Sau năm 1975, về nhân sự, Tổng giáo phận Huế có 18 linh mục di cư vào miền Nam và 13 linh mục di chuyển đến hải ngoại. Giáo dân còn lại 41.941 người. Năm 1977, Tổng giám mục Điền có hai bài phát biểu về chủ đề tự do tôn giáo. Tổng giám mục Điền, sau hai phát biểu căng thẳng kể trên, bị quản thúc. Tổng giám mục Điền cũng bị canh chừng theo dõi tại Tòa Tổng giám mục và nội dung bài giảng lễ, không được cho phép tham gia họp Hội đồng Giám mục và chuyến thăm Ad Limina và bị hạn chế đi lại. Các linh mục tại Huế gặp nhiều khó khăn, kể cả trong việc thuyên chuyển và các sinh hoạt tôn giáo. Nhiều cơ sở tôn giáo bị phong tỏa và lục soát. Riêng quản gia của Tòa giám mục, ông Nguyễn Văn Bông, ngoài là một giáo dân, ông còn hoạt động cho công an, gây nhiều khủng hoảng cho giáo phận. 18 trong tổng số 45 chủng sinh của tổng giáo phận bị chính quyền loại bỏ khỏi chủng viện vào năm 1978, sau khi hai tổng giám mục của Huế từ chối đến làm việc cùng chính quyền để loại bỏ chủng sinh. Tháng 12 năm 1979, chính quyền trục xuất các chủng sinh, và chính thức quản lý Chủng viện Hoan Thiện. Đại hội Hành hương La Vang lần thứ 18 tiếp tục tổ chức vào tháng 8 năm 1978, sau tám năm gián đoạn, trong hoàn cảnh khó khăn. Do hoàn cảnh chiến sự, sau khi phân tách giáo phận Đà Nẵng vào năm 1963, giáo phận có 117.000 giáo dân chỉ còn lại 43.000 giáo dân, phần lớn di tản ra ngoài địa bàn giáo phận. Riêng Giám mục Giuse Phan Văn Hoa bị mời lên làm việc tại Công an tỉnh Nghĩa Bình trong vòng 19 ngày. Do bị cao huyết áp, Giám mục Hoa sau đó bị tai biến mạch máu não phải điều trị tại Bệnh viện Bình Định, bệnh viện Saint Paul Sài Gòn và kể từ đầu năm 1977, điều trị tại Tòa giám mục. Sức khỏe của ông suy yếu sau đợt bệnh này.

*Giáo phận Đà Nẵng: Khoảng 40.000 đến 50.000 giáo dân di cư khỏi giáo phận Đà Nẵng, để lại số giáo dân khoảng 40.000 người. Số lượng linh mục vào đầu năm 1975 là 117 người, sau đó sụt giảm còn lại 50 người. Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi chọn và tấn phong Giám mục phó Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách vào tháng 6 năm 1975.D ưới thời chính quyền mới, các cơ sở từ thiện và giáo dân [trực thuộc giáo phận] được bàn giao cho chính quyền sử dụng và quản lý. Nhiều sinh hoạt tôn giáo như đào tạo và phong chức giáo sĩ, thăm viếng và trao các bí tích lâm vào vào tình cảnh rất khó khăn. Bản thân Giám mục Chi phải học tập cải tạo riêng với Phó Trưởng Ty Công An Quảng Nam - Đà Nẵng Lê Lực. Ông Lực cho biết Nhà nước khoan hồng Giám mục Chi là vì lý do nhân đạo và tuổi tác của giám mục; và lưu ý việc Giám mục Chi có bị bắt giữ hay không tùy vào thái độ của ông. Từ năm 1975 cho đến khi qua đời, Giám mục Phạm Ngọc Chi hầu như không xuất hiện công khai, kể cả ctrong ác phiên họp của Hội đồng Giám mục Việt Nam.

*Giáo phận Kon Tum: Sau năm 1975, Giám mục Paul Seitz Kim bị trục xuất. Giám mục Alexis Phạm Văn Lộc bị thẩm vấn về các cơ sở vật chất và tài chính của giáo phận, trong khi tòa giám mục bị giám sát. Các linh mục, yao phu bị quản thúc và cải tạo, các cơ sở tôn giáo bị tịch thu và các sinh hoạt tôn giáo bị đình trệ, do giám mục không thể đến thăm mục vụ cho một số giáo xứ ở vùng xa. Các linh mục thực hiện Bí tích Hòa Giải đối mặt nguy cơ phải làm tờ trình nếu bị bắt quả tang. Chủng viện đào tạo chủng sinh phải đóng cửa vào tháng 8 năm 1976. Trong tình hình khó khăn và bị cô lập, Giám mục phó Phêrô Trần Thanh Chung được tấn phong vào năm 1981.

*Giáo phận Ban Mê Thuột: Chủng viện Lê Bảo Tịnh bị trưng thu tháng 10 năm 1977, các chủng sinh về học tại Tòa giám mục. "Chủng viện" và [các chủng sinh] bị thanh lọc vào năm 1978. Đến năm 1983, Chủng viện gần như bị giải thể. Giám mục Giáo phận Phêrô Nguyễn Huy Mai chỉ được công nhận là linh mục chính xứ Nhà thờ chính tòa Ban Mê Thuột, cho đến tận thời điểm cung hiến Nhà thờ chính tòa năm 1990.

*Giáo phận Nha Trang: Chức vị Giám mục Nha Trang thay đổi không lâu trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, với việc Giám mục Tiên khởi Phan Thiết Nguyễn Văn Hòa trở thành Giám mục chính tòa, thay nguyên giám mục Nha Trang Nguyễn Văn Thuận được thăng Tổng giám mục Sài Gòn. Sau khi chia tách lập tân giáo phận Phan Thiết, giáo phận Nha Trang năm 1975 giảm từ khoảng 170.000 giáo dân xuống còn hơn 101.000 người. Hoàn cảnh mà tân giám mục nhận chức được xem là phức tạp.

Giáo tỉnh Sài Gòn

Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình dịp Thượng thọ bát tuần, năm 1990

  • Tổng giáo phận Sài Gòn (từ ngày 23 tháng 11 năm 1976 là "Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh"): :Linh mục Dòng Tên người Canada Andre Gelinas đánh giá Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cộng tác với chính quyền mang tư tưởng Cộng sản, gây chia rẽ trong giới tín đồ Công giáo. Một vài ngày sau sự kiện ngày 30 tháng 4, ngày 5 tháng 5 năm 1975, Tổng giám mục Bình công bố thư chung, kêu gọi người Công giáo "hòa mình vào nhịp sống của toàn dân", đồng thời cho rằng [sự kiện ngày 30 tháng 4] là niềm vui chung của đất nước và là hồng ân Chúa ban. Văn thư số 576/VP75 của Tổng giám mục Bình xác nhận quyền sở hữu các cơ sở trên vẫn thuộc về Giáo hội Công giáo. Giới Công giáo Thành phố cũng tổ chức mít tinh chúc Hội nghị Hiệp thương Chính trị để thống nhất Việt Nam tháng 11 năm 1975 được thành công. Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn phải đóng cửa từ năm 1976 cho đến khi được mở lại vào năm 1986. :Theo ông Vũ Sinh Hiên, các sinh hoạt tại giáo xứ trong tổng giáo phận vẫn diễn ra bình thường, tuy các thành viên giúp đỡ linh mục điều hành xứ không còn tổ chức thành Hội đồng Giáo xứ và các linh mục hỗ trợ chính quyền vận động giáo dân tham gia các sinh hoạt, phong trào của chính quyền. Ông nhận định rằng "không cóp dấu hiệu nào chứng tỏ là đạo bị cấm" và việc hát lễ trở nên phổ biến. Ông Hiên cũng thông tin rằng các đoàn hợp ca Công giáo cũng tham gia biểu diễn ở các sự kiện lớn của Việt Nam, kể cả ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau biến cố, các hội đoàn Giáo dân bị giải thể và việc đào tạo tu sĩ bị đình trệ, theo bài viết vào năm 1990 của ông Hiên. Linh mục [Tổng đại diện] Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh công khai tuyên bố có quyền và có bổn phận tố cáo tất cả những ai phản động. :*Trong việc tham gia xây dựng "Vùng Kinh tế mới", với tư cách Chủ tịch Hội đồng Giám mục [miền Nam], Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình đã tham gia bằng cách cùng 195 linh mục và 136 nữ tu tham gia chương trình "lao động xã hội chủ nghĩa" trong vòng ba tháng, từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1976. Riêng Tổng giáo phận Sài Gòn (từ tháng 11 năm 1976 là Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh), Tổng giám mục thành lập "Ban Mục vụ Kinh Tế Mới" và "Ban Lao động Sản xuất" ngay tại Tòa Tổng giám mục. Tổng giám mục Bình cũng khuyến khích giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân học tập chính trị, tham gia lao động, các riêng khuyến khích các linh mục học thêm một nghề để kiếm sống khi cần. [Sau năm 1975], các trường học, cô nhi viện, bệnh viện và ngân hàng thuộc về Giáo hội Công giáo Việt Nam không còn tồn tại. Trong hoàn cảnh chiến sự, tháng 3 năm 1979, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình viết thư kêu gọi giáo dân xây dựng tuyến phòng thủ, đồng thời bổ nhiệm Giám mục Phạm Văn Nẫm làm Trưởng ban Tổ chức, Ông cùng giám mục Nẫm đã viết thư ngỏ gửi các tín đồ Công giáo trên toàn thế giới để nói về chủ đề những người di cư (thuyền nhân), mong rằng họ sẽ nhận được giúp đỡ.

*Giáo phận Vĩnh Long: Giám mục Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, nhằm thích nghi với hoàn cảnh mới, đã tấn phong Giám mục phó Raphae Nguyễn Văn Diệp. Sau chiến tranh, nhiều cơ sở [thuộc quyền giáo phận] bị trưng dụng và trưng thu. Nhiều giáo sĩ và tu sĩ được yêu cầu học tập cải tạo và đời sống tôn giáo của các họ đạo và hội dòng được nhận định là hơi khó khăn. Giám mục Mầu vẫn có thể đến cử hành lễ trao Bí tích Thêm Sức tại các họ đạo sau khi nhận được cấp phép. Niềm tin tôn giáo của giáo dân nhìn chung vẫn phát triển. Năm 1980, giáo phận được cho phép phong chức một linh mục.

*Giáo phận Mỹ Tho: Các sinh hoạt mục vụ tôn giáo và đời sống tôn giáo của giáo dân gặp nhiều khó khăn. Dòng tu và chủng viện bị giới hạn hoạt động, cũng như các xứ đạo thiếu linh mục và thăm mục vụ gặp ngăn trở gây ảnh hưởng đến đức tin của tín đồ trong giáo phận. Kể từ năm 1975, các chủng viện, gồm hai cấp tiểu chủng viện và đại chủng viện phải tạm ngừng hoạt động. Các tiểu chủng sinh về sinh sống cùng gia đình, trong khi các đại chủng sinh, sau một thời gian tu học và lao động tại các giáo xứ, đã được đưa vể Tiểu chủng viện Gioan XXIII để tiếp tục tu học và lao động tại Hợp tác xã dệt chiếu Thanh Bình. Tuy vậy, các chủng sinh gặp nhiều khủng hoảng và "chuyển hướng". Chủng viện chính thức dừng hoạt động năm 1978, các đại chủng sinh tu học tại các giáo xứ và thụ phong chức linh mục. Giám mục chính tòa Giuse Trần Văn Thiện rút về âm thầm giảng dạy giáo lý trong giai đoạn hậu chiến. Giám mục Thiện cũng tấn phong tân Giám mục phó Anrê Nguyễn Văn Nam vào tháng 6 năm 1975. Giám mục Nam đã thực hiện truyền chức cách âm thầm cho hàng chục linh mục, với lý do xin phép chính quyền nhưng thời gian chờ đợi là rất lâu, và truyền chức vì tình thương giáo dân. Trong các buổi làm việc với chính quyền, Giám mục Nam dẫn chứng việc mình không cần xin phép để giúp đỡ những người khó khăn, mà trong đó có cả những người thuộc về Cách Mạng. Giám mục Trần Văn Thiện bàn gian toàn bộ việc thăm mục vụ trên địa bàn giáo phận cho Giám mục phó Nam. Do hoàn cảnh xã hội, Giám mục Nam thường thực hiện các chuyến viếng thăm để giảng giáo lý, tĩnh tâm cho giáo dân, và ở cùng họ. Vì nhiều họ đạo ở vị trí xa xôi và trắc trở, Giám mục Nam dùng nhiều phương tiện đường bộ, đường thủy để đến thăm mục vụ. Giám mục Nam đã thực hiện các chuyến viếng thăm này kể từ năm 1975 đến năm 1986. Cuối tháng 8 năm 1975, các giáo sĩ và tu sĩ ngoại quốc quản lý Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt bị buộc rời khỏi Việt Nam và cơ sở này trở thành cơ sở thuộc quyền quản lý của Giám mục Lâm. Giám mục đã tiếp tục duy trì học viện được thêm gần hai năm, đến ngày 9 tháng 8 năm 1977 thì giải tán. Nhà nước chính thức mượn cơ sở này kể từ năm 1980. Đại chủng viện Minh Hòa cũng được bàn giao cho Nhà nước vào tháng 4 năm 1980, giáo phận còn lại Tiểu chủng viện Simon Hòa. Giáo phận Đà Lạt có 4 linh mục đầu tiên vào tháng 8 năm 1975, và thêm 6 linh mục vào tháng 2 năm 1977. Bản thân giám mục đã quản lý và giáo dục giáo dân qua hình thức các lá thư mục vụ: thông báo chính quyền mới và việc chung sống (tháng 4 năm 1975), duy trì Bí tích Thánh Thể (tháng 5 năm 1975), vị thế linh mục trong chế độ mới (tháng 6 năm 1975), gửi giáo hữu đến vùng kinh tế mới (1976), ... Giám mục Lâm được lòng Nhà nước trong giai đoạn đầu, và đã từng được đề cử làm Tổng giám mục phó Hà Nội, giai đoạn Giám mục Nguyễn Văn Sang chưa được chọn (khoảng 1978 đến 1981).

Giáo phận Long Xuyên: Sau khi truyền chức giám mục phó cho Linh mục Gioan Baotixita Bùi Tuần, Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ rút về âm thầm, trao quyền và trách nhiệm quản lý giáo phận cho tân giám mục phó. Một số linh mục tuyên úy phải đi học tập cải tạo, trong khi các tân linh mục sau sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 không được công nhận. Theo giáo phận, các sinh hoạt tôn giáo như giảng dạy giáo lý, đoàn thể, truyền chức linh mục và đào tạo chủng sinh bị giới hạn. Sau sự kiện ngày 30 tháng 4, các chủng sinh từ Đại chủng viện Sài Gòn được đưa về Đại chủng viện Long Xuyên để đào tạo cấp tốc, sau đó gửi đi hỗ trợ mục vụ tại các giáo xứ. Các cơ sở và ruộng đất bị trưng dụng, gồm 12 trường trung học và 100 trường tiểu học thuộc quyền giáo. Đại chủng viện Tôma Long Xuyên, cùng hai tiểu chủng viện của giáo phận bị trưng dụng vào năm 1976. Về mặt nhân sự, làn sóng vượt biên làm suy giảm số lượng linh mục và chủng sinh. Trong hoàn cảnh mới, nhiều giáo họ, giáo xứ được thành lập, là kết quả của chính sách kinh tế mới, nhiều giáo họ và giáo xứ tái sinh sau chiến tranh. Linh mục, chủng sinh và tu sĩ đồng hành cùng người dân qua các việc đời sống hằng ngày, mở nhà trọ cho học sinh, sinh viên nghèo, các lớp học tình thương cũng như quỹ cho học bổng. Về phần giáo dân, họ đóng góp xây dựng nhà tình thương, sửa đường và xây cầu; trong khi các giáo xứ tổ chức phát gạo phát thuốc, khám bệnh miễn phí. Giáo phận có thêm 65 tân linh mục trong giai đoạn 1975 đến 1993. Giáo phận Cần Thơ: Tại giáo phận này, chính quyền cho phép tổ chức đào tạo chủng sinh Công giáo theo hai học kỳ mỗi năm, mỗi học kỳ bốn tháng. Đầu năm 1976, các khóa thần học này chính thức được tổ chức tại Đại chủng viện Thánh Quý, cho đến năm 1982 thì bị đình chỉ theo ý chính quyền. Đại chủng viện bị đóng cửa, trong khi Giáo hội không có tiếng nói trong sự vụ này, cũng không có định hướng cho các chủng sinh. Số lượng linh mục thay đổi từ 118 vào đầu năm 1975 còn 86 vào cuối năm 1975, trong đó có 14 linh mục phải đi học tập cải tạo. Giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang dùng đặc quyền Tòa Thánh, chọn và truyền chức Giám mục phó Emmanuel Lê Phong Thuận. Tháng 8 năm 1976, Giám mục Quang và Ban cố vấn Giáo phận bàn giao phần lớn đất đai của giáo phận để chia cho dân chúng, chỉ giữ lại một số cho các linh mục canh tác. Các trường học (51 tiểu và trung học, kỹ thuật cùng 23 trường cấp mầm non) được bàn giao cho chính quyền, các cơ sở giáo dục và y tế được bàn giao hoặc giải thể. Các đoàn thể Công giáo bị tan rã, bị cấm hoạt động. 20 tân linh mục được truyền chức trong giai đoạn 1976 đến 1982 là những chủng sinh trên thực tế đã hoàn thành chương trình đào tạo trước năm 1975. Các họ đạo tại thị thành có số giáo dân giảm, trong khi các họ đạo vùng quê gia tăng về số lượng giáo dân, do ảnh hưởng của chính sách của chính quyền, tạo điều kiện cho nhiều linh mục thường trú. Từ năm 1975 đến 1980, 20 nhà thờ được xây dựng hoặc trùng tu.

Giai đoạn 1980–1990

Tổng quan

Vào dịp kỷ niệm 5 năm sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuối tháng 4 năm 1980, các giám mục Việt Nam trên toàn quốc lần đầu tiên hội họp tại Hà Nội. Vấn đề rút lại Thư Chung năm 1951 được một số ý kiến đặt kỳ vọng. Cả phía Nhà nước và nội bộ Giáo hội mong đợi các giám mục đưa ra định hướng mới cho Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, trong bối cảnh đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc Lần thứ VI, vấn đề tôn giáo được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tôn trọng tự do tín ngưỡng, đồng thời giúp đỡ người dân theo các tôn giáo xây dựng cuộc sống trong tình đoàn kết và tham gia bảo vệ quốc gia. Theo trang tin của Giáo phận Long Xuyên, kể từ khi chính sách Đổi Mới Từ năm 1986, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo trở nên cởi mở hơn. Về phần giáo phận, nhiều giáo xứ, giáo họ được trùng tu xây mới, các sinh hoạt đoàn thể Công giáo và truyền giáo được chú trọng. Theo tác giả Nguyễn Quang Hưng, nghị quyết này chính là bước ngoặt trong chính sách về tôn giáo của chính phủ Việt Nam, được khẳng định lại trong nội dung Nghị quyết Trung ương 7 Khóa IX.

Trong khoảng thời gian 11 năm, kéo dài từ năm 1980 đến năm 1990, chỉ có thêm sáu giám mục Việt Nam được tấn phong chức giám mục, giảm so với con số 9 tân giám mục so với giai đoạn 1976-1979, và 13 tân giám mục được truyền chức trong năm 1975. Sáu giám mục chính thức được liệt kê trong danh sách giám mục của Hội đồng Giám mục Việt Nam gồm: Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang (1981), Giuse Trịnh Chính Trực (1981), Phêrô Trần Thanh Chung (1981), Louis Hà Kim Danh (1982), Giuse Nguyễn Văn Yến (1988) và Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến (1989). Trường hợp của Giám mục mật phong Giacôbê Lê Văn Mẫn của Tổng giáo phận Huế được tấn phong năm 1984, sách Niên giám Công giáo Việt Nam 2016 ghi nhận vụ việc có khả năng chưa được trình báo Tòa Thánh nên không ghi tên ông vào danh sách giám mục. Trình bày với Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào chuyến thăm Ad Limina vào tháng 11 năm 1990, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giám mục Nguyễn Minh Nhật ghi nhận thành quả tiếp xúc giữa Tòa Thánh và Việt Nam, bày tỏ lo lắng rằng trong vòng chỉ ba năm (từ 1987) đã có 11 giám mục Việt Nam qua đời, để lại 5 giáo phận trong cảnh trống tòa. Năm 1985, Giáo hoàng Gioan Phaolô II gửi một sứ điệp đến giáo hội Công giáo tại Việt Nam nhân dịp 25 năm thành lập hàng giáo phẩm Công giáo tại quốc gia này.

Các giám mục Roger Mahony, Theodore McCarrick và Edward O'Meara đại diện Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, trong chuyến viếng thăm ba quốc gia châu Á, đã đến thăm Việt Nam vào năm 1989. Phái đoàn lần thứ hai thăm Việt Nam vào tháng 5 năm 1990, để chủ sự lễ an táng cố hồng y Trịnh Văn Căn. Sau hai chuyến thăm mục vụ này, chuyến thăm lần thứ ba vào năm 1991 là chuyến thăm đầu tiên mang tính chất thương thảo với chính quyền. Lễ tang của cố Hồng y Trịnh Văn Căn được tham dự bởi hàng nghìn người, trong khi [các nghi thức xung quanh] tang lễ cũng được phát trên vô tuyến trong giai đoạn ba ngày. Theo Barbara Crossette viết trên The New York Times vào tháng 5 năm 1988, kể từ sau năm 1975, trong khi các trường học về bệnh viện bị đóng, nhà thờ được cho phép mở cửa, và đông đúc [giáo dân]. Chính quyền phản đối các bổ nhiệm giám mục, cấm cản họ tham dự các phiên họp quốc tế, cũng như cấm các linh mục ngoại quốc tại Việt Nam.

Với lần họp đầu tiên, Hội đồng Giám mục ra định hướng mục vụ: Giáo Hội Việt Nam sống Phúc âm và hoà mình giữa lòng dân tộc. Bức thư này có đối tượng độc giả vượt ngoài các giáo hữu Công giáo Việt Nam, nên trong khi nó mang nội dung truyền giáo, nó còn mang nội dung về chính sách của chính quyền, với phong thái đối thoại và hợp tác, đưa ra định hướng về đời sống đạo mới và cách thức trình bày đức tin Công giáo theo văn hóa Việt Nam. Trong thư Luân lưu, các giám mục Việt Nam xác nhận đã xem lại nội qui và đặt lại cơ cấu của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũ để thiết lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (mới). Đây là lần đầu tiên Giáo hội Công giáo Việt Nam ở cả hai miền có một tiếng nói chính thức.

Ba mươi ba giám mục tham dự đại hội biểu quyết thông qua việc linh địa Đức Mẹ La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu toàn quốc. Hội đồng cũng ấn định họp mỗi năm một lần, hoặc họp bất thường với sự đề xuất của Chủ tịch Hội đồng Giám mục. Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam trong ba khóa đầu tiên, từ năm 1980 đến năm 1989 là Hồng y Trịnh Văn Căn, Tổng giám mục Hà Nội. Trước khi bế mạc, các giám mục đã đến viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và yết kiết thủ tướng chính phủ.

Về Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam

Tại miền Nam, sau năm 1975, nhiều giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân tích cực tham gia Uỷ ban do Nhà nước hậu thuẫn để phục vụ giáo hội sau chiến tranh. Tác giả An Dang đánh giá họ tham gia vì sợ hãi, và dần tỏ ra nghi kỵ về mục đích của Uỷ ban sau khi người chủ sự cố ý bỏ qua lời cầu nguyện cho Giáo hoàng trong một thánh lễ Công giáo vào tháng 12 năm 1976. Những người Công giáo tại miền Nam cảnh giác với tờ báo Công giáo và Dân tộc vì tờ báo này đăng tải nhiều bài viết chống lại giáo hoàng và Tòa Thánh. Hồng y Trịnh Văn Căn cho biết ông không bình luận về sự kiện kể trên và Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho biết ông không xác nhận và cũng không lên án các ủy ban. Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đánh giá rằng kẻ thù phương Bắc đã sai lầm khi thúc ép một số người Công giáo Việt Nam thành lập giáo hội ly giáo. Ba giám mục miền Nam công khai phản đối gồm Tổng giám mục Huế Nguyễn Kim Điền, Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột Nguyễn Huy Mai, Giám mục giáo phận Xuân Lộc Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, trong khi các giám mục khác miễn cưỡng chấp nhận. Cá nhân Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho rằng Uỷ ban được sử dụng để làm việc với nhà cầm quyền. Tòa Thánh đã gửi thư cảnh báo về tình trạng giáo sĩ tham gia vào ủy ban, và hầu hết các linh mục rút khỏi ủy ban khi bức thư này được công bố vào năm 1985. Việc cấm thành lập Uỷ ban Đoàn kết tại Giáo phận Ban Mê Thuột đã dẫn đến việc giám mục giáo phận, Phêrô Nguyễn Huy Mai, Phó Chủ tịch Thứ I của Hội đồng Giám mục Việt Nam bị cấm tham gia tham dự cuộc họp của Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục vào năm 1990.

Agenzia Fides, tờ báo của bộ Truyền giáo (tên gọi cũ là Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc) vào tháng 8 năm 1984 báo cáo rằng chính quyền đã thiết lập ở cấp địa phương một Giáo hội song song, trong khi một quan chức Tòa Thánh được dẫn rằng "quan ngại sâu sắc" về báo cáo rằng chính quyền đang cố thành lập một giáo hội song song ủng hộ chính quyền. Theo tác giả Peter Hansen, Nhà nước chỉ xem ủy ban là một hiệp hội của người Công giáo và người Công giáo có thể tham gia trong khi vẫn duy trì tính trung thành với Giáo hội này. Ông cho biết Uỷ ban không cố gắng thành lập một giáo hội song song, tấn phong giám mục cho các ứng viên không được Tòa Thánh ủng hộ, tuy phía Nhà nước nhiều lần phủ quyết các ứng viên giám mục do Tòa Thánh đề xuất.

Bruce Matthews, viết trong bài báo của mình vào năm 1992 đánh giá Uỷ ban là một tổ chức chính trị, không phải là một tổ chức tôn giáo. Uỷ ban được đánh giá là nguồn lực quan trọng của Công giáo tại miền Nam, xung quanh khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Trong một báo cáo năm 2024, đánh giá về Uỷ ban, Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) đã nhận định rằng thông qua các giáo sĩ (giám mục và linh mục) có mối quan hệ với Đảng, chính phủ đã thâm nhập vào các dòng tu và hệ thống giáo sĩ của Công giáo. Các thành viên Uỷ ban Đoàn kết bị nhận định đã tấn công các giáo dân và linh mục không thỏa hiệp với chính quyền, lên tiếng bảo vệ tự do tôn giáo và chống các bất công xã hội. Linh mục [thuộc Uỷ ban] Trương Bá Cần, thông qua tờ báo Công giáo và Dân tộc đã viết các bài viết chống lại việc tuyên thánh các thánh tử đạo tại Việt Nam.

Vấn đề đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển giáo sĩ

Nghi thức đặt tay truyền chức Linh mục cho [[Giuse Nguyễn Năng (1990)]] Từ năm 1975, trong phạm vi của Giáo tỉnh Hà Nội, các chủng viện Công giáo đều phải đóng cửa, trong khi các giám mục chịu trách nhiệm đào tạo chủng sinh cho giáo phận. Thiếu cơ sở đào tạo

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Lịch sử Công giáo Việt Nam (1990–2005)** là một giai đoạn lịch sử kéo dài 15 năm, tiếp sau giai đoạn 15 năm khó khăn trước đó của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam,
Hiện vẫn chưa định được chính xác thời điểm đạo Phật bắt đầu truyền vào Việt Nam và **Phật giáo Việt Nam** đã thành hình như thế nào. Một nghiên cứu cho rằng đạo Phật
**Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất** (viết tắt là **GHPGVNTN**), thành lập vào tháng 1 năm 1964, là một trong những tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, từng được nhà nước Việt
phải|nhỏ|Cải cách ruộng đất hoàn tất, nông dân đốt văn tự cũ **Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam** là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Tân nhạc**, **nhạc tân thời**, **nhạc cải cách** hay **nhạc nhẹ** là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng năm 1928. Tân nhạc là một phần của **âm
**Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993** là một cuộc biểu tình lớn của hơn 40.000 người dân Huế, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố vào ngày 24 tháng
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Anrê Nguyễn Văn Nam** (22 tháng 2 năm 192216 tháng 3 năm 2006) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách cương vị giám mục chính tòa Giáo phận
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Bóng đá tại Việt Nam** do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) điều hành. Liên đoàn quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam bao gồm các đội tuyển nam và
Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: [[Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ , Hắc cô như đàn bầu, tam thập
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
Tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước diễn ra từ năm 1951 cho tới nay, bao gồm cả tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển, xuất phát từ cách nhìn nhận khác nhau
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Viện Toán học** là cơ quan nghiên cứu chuyên sâu cơ bản về toán học trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST). Viện được thành lập năm 1969 theo Nghị định
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Quan hệ Malaysia-Việt Nam** (tiếng Malay _Hubungan Malaysia-Vietnam_) là mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Malaysia, được thiết lập ngày 30/3/1973. Việt Nam đã mở đại sứ quán tại Kuala Lumpur và
Bài **Lịch sử Israel** này viết về lịch sử quốc gia Israel hiện đại, từ khi được tuyên bố thành lập năm 1948 cho tới tới hiện tại. Nền độc lập của Nhà nước Israel
**Đài Truyền hình Việt Nam**, được biết đến rộng rãi với tên gọi **VTV** (viết tắt của từ ), là đài truyền hình quốc gia thuộc sở hữu của Chính phủ nước Cộng hòa Xã
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
thumb|230x230px|Bão Yagi (bão số 3 năm 2024), cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Việt Nam trong 70 năm qua, gây sức gió tại Bãi Cháy là 45m/s (cấp 14) giật 62m/s (trên cấp 17)
**Opera Việt Nam** đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nhưng sự hình thành và phát triển của thanh nhạc Việt Nam nói chung và opera nói riêng mới
Bằng chứng về sự hiện diện của con người ở các vùng cao nguyên phía bắc và trung tâm bán đảo Đông Dương đã tạo nên lãnh thổ của dân tộc Lào hiện đại từ
**Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam** là mối quan hệ ngoại giao được thiết lập chính thức giữa Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai quốc gia
**Bộ Nội vụ** là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực: Tổ chức hành chính, sự nghiệp nhà nước; tổ chức chính
**Dân chủ tại Việt Nam** đề cập đến tình hình dân chủ và các vấn đề liên quan đến dân chủ tại Việt Nam. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
**Kiểm duyệt ở Việt Nam** rất phổ biến và được thực hiện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam với mọi loại phuơng tiện truyền thông – báo chí, văn học, tác phẩm nghệ thuật, âm
Một tòa nhà của [[Viện Đại học Huế (nay là Đại học Huế), ở số 3 đường Lê Lợi, thành phố Huế.]] Các chính thể độc lập ở Việt Nam từ thế kỷ 20 nói
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
Biểu trưng và khẩu hiệu của ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012-2015 do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra. [[Vịnh Hạ Long]] nhỏ|Du khách thăm [[Đền Ngọc Sơn và cầu Thê
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề **bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ** được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11
**Viện phát triển khoa học và công nghệ quốc phòng** (viết tắt **AMST** theo tên tiếng Anh của đơn vị là _Academy of Military Science and Technology_) là một viện nghiên cứu khoa học đa
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Mại dâm ở Việt Nam** là một chủ đề về hoạt động mại dâm tại Việt Nam, cũng như những quy định của pháp luật về hành vi mua bán dâm, chủ chứa, môi giới
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, miền Nam Việt Nam. Tây Ninh nằm ở biên giới miền Tây Nam của Việt Nam, có chung đường biên giới quốc tế trên bộ
**Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam** là cơ quan của Chính phủ Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản, in, phát hành; phát thanh và
**Thông tấn xã Việt Nam** (**TTXVN**) là hãng thông tấn Quốc gia trực thuộc Chính phủ Việt Nam và là cơ quan thông tin chính thức của Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
**Chủ nghĩa lý lịch** **ở Việt Nam** là hệ thống các chủ trương, lý luận, biện pháp nhằm thực hiện niềm tin là mọi việc đang, sẽ diễn ra đều bắt nguồn từ những việc
**Quan hệ Nga – Việt Nam** () là quan hệ giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga, kế thừa quan hệ đồng minh thân thiết giữa Việt Nam Dân
**Quan hệ Việt Nam - Campuchia** là mối quan hệ song phương giữa 2 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia. Đây cũng đồng thời là mối quan hệ
nhỏ|260x260px|[[Thánh lễ tại nhà thờ Thánh Joseph thuộc Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh]] **Giáo hội Công giáo tại Campuchia** là một phần của Giáo hội Công giáo toàn cầu, đặt dưới sự lãnh
**Quan hệ Algérie-Việt Nam** là quan hệ song phương giữa Algérie và Việt Nam. Hai nước thiết lập quan hệ vào năm 1962, mặc dù mối quan hệ giữa Algérie và Việt Nam đã được
**Quảng Nam** là một tỉnh cũ thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phía bắc giáp thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng, phía nam giáp các tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum, phía
**Ngân hàng Nhà nước Việt Nam** (tên viết tắt: **SBV** hoặc **NHNNVN**) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ Việt Nam, là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa