✨Nguyễn Lân

Nguyễn Lân

Nguyễn Lân (14 tháng 6 năm 1906 – 7 tháng 8 năm 2003) là một giáo viên, người biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có công trong việc xây dựng bộ môn và khoa tâm lý học, giáo dục học của hệ thống các trường sư phạm ở Việt Nam. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân.

Tiểu sử và quá trình công tác

Nguyễn Lân sinh ngày 14 tháng 6 năm 1906 trong một gia đình nhà nông nghèo, hiếu học ở làng Ngọc Lập, Phùng Chí Kiên, Mỹ Hào, Hưng Yên. Năm 1929, ông thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Năm 1932, ông dạy tại Trường Hồng Bàng, sau đó làm giám học và dạy 2 môn văn, sử tại Trường Thăng Long. Từ năm 1935 đến năm 1945, ông sinh sống tại Huế.

Năm 1945, ông được Chính phủ Trần Trọng Kim mời làm Đốc lý ở Huế, ông đã chấp thuận với 2 yêu cầu: 1. tuy làm đốc lý nhưng vẫn ăn lương giáo viên và có giờ dạy học, 2. không giao thiệp với người Nhật đang có mặt ở Huế lúc ấy. Thời gian này ông đã mở một lớp sư phạm, đồng thời tiến hành một số hoạt động hướng về cách mạng Việt Nam, ông đã mời các nhân sĩ ở Huế đến họp để đổi tên các đường phố từ tên tiếng Pháp sang tên tiếng Việt.

Năm 1946, ông trở ra Hà Nội và dạy học tại Trường Bưởi. Được một thời gian, kháng chiến bùng nổ, Ông đưa vợ con lên vùng Việt Bắc và được cử làm Giám đốc giáo dục Liên khu 10 gồm 6 tỉnh: Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên (nay là Vĩnh Phúc), Tuyên Quang, Lào Cai và Hà Giang.

Năm 1951, ông được cử đi học ở khu học xã Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Năm 1956, ông về dạy tại khoa tâm lý giáo dục của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Năm 1971, ông về nghỉ hưu ở tuổi 67. Từ đó cho đến khi qua đời, ông đã dành trọn thời gian cho việc biên soạn từ điển và nghiên cứu nhằm gìn giữ, phát triển tiếng Việt. Các cuốn từ điển do ông biên soạn như: Từ điển Việt-Pháp (1989), Từ điển Hán-Việt, Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp-Việt (1993), Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000)... Tuy vậy hiện nay đang có nhiều nhà nghiên cứu đã cho công bố nhiều sai sót trong các quyển từ điển này.

Năm 1988, ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân.

Năm 2001, ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng nhà nước về khoa học và công nghệ cho "Cụm công trình về giáo dục học từ điển tiếng Việt".

Ngày 7 tháng 8 năm 2003, ông qua đời ở tuổi 97 tại Hà Nội vì mắc bệnh ung thư.

Hoạt động gây tranh cãi

Nguyễn Lân cũng là một nhân vật gây tranh cãi khi ông tham gia phê bình Giáo sư Trương Tửu và Giáo sư Trần Đức Thảo – sự kiện mà sau này ông nói ân hận, và các thiếu sót khi soạn từ điển tiếng Việt.

Phê phán Giáo sư Trần Đức Thảo và Giáo sư Trương Tửu

Ông góp phần phê phán Giáo sư Trương Tửu và Giáo sư Trần Đức Thảo trong chiến dịch Nhân văn Giai phẩm:

Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Đức Thảo bị mất chức Phó Giám đốc trường ĐH sư phạm Hà Nội, chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả ĐH sư phạm và ĐHTH Hà Nội, Trần Đức Thảo phải thôi giảng dạy, phải dịch thuật lặt vặt để kiếm thu nhập. Trương Tửu bị buộc phải thôi việc.

Về sau, Nguyễn Lân tỏ ra ân hận về những phê phán của mình đối với Giáo sư Trần Đức Thảo, sau khi ông Trần Đức Thảo nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng cấp cao nhất của nhà nước Việt Nam. Ông không xin lỗi Trương Tửu.

''Cả đời tôi sống thanh bạch, không làm điều gì để trái với lương tâm, chỉ có hai điều tôi cứ ân hận mãi. Một là tôi được các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đến tận nhà thăm hỏi, những do tuổi cao, đi lại không thuận tiện nên chưa lần nào đến nhà đáp lễ được. Điều thứ hai là, năm 1957, hồi tôi là Chủ tịch Công đoàn ngành giáo dục, được tổ chức phân công cuộc họp phê phán ông Trần Đức Thảo, một nhà triết học rất uyên bác. Là nhiệm vụ trên giao, tôi không thể không thực hiện, mà trong lòng thấy ân hận vô cùng. Rất mừng, năm 2000 các công trình nghiên cứu của GS Trần Đức Thảo được Đảng và Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh". Bài viết đã phân tích những sai lầm cơ bản về giải thích từ và ngữ của Nguyễn Lân.

Sau đó Nguyễn Lân gửi thư cho Tạp chí Văn, tạp chí này đã đăng bức thư đó. Nội dung bức thư, Nguyễn Lân cho rằng mình tuổi già sức yếu nên có thể có những sai sót và cho rằng ông Huệ Thiên nhận xét sai lệch.

Tác giả Lê Mạnh Chiến đã đăng trên tạp chí Thế giới Mới từ số 582 đến số 587 (26/4 đến 31/5/2004) với nhan đề là "170 sai lầm trong một cuốn từ điển", chỉ ra những sai lầm của Nguyễn Lân trong việc biên soạn từ điển.

Tác giả Lê Mạnh Chiến đã phân tích nhà giáo Nguyễn Lân đã giải nghĩa các Từ tố không thỏa đáng; Giảng đúng nghĩa của các từ tố, nhưng giảng sai nghĩa của từ; Dựa theo cảm thức chủ quan để "sáng tác" nghĩa cho các từ tố; Không phân biệt được các từ gốc Hán đã Việt hoá và các từ "thuần Hán"; Giải thích sai lệch các từ ngữ liên quan đến lịch sử và văn hoá. Lê Mạnh Chiến cũng cho rằng nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân: [..] hoàn toàn không đọc được chữ Hán nên không thể ghi các từ bằng chữ Hán được, nhưng ông vẫn muốn tỏ ra hiểu biết sâu sắc về mảng từ Hán Việt nên đã ra sức giải nghĩa từng từ tố. Vì thế, khi giải nghĩa các từ tố, ông ta chỉ có thể đoán mò dựa theo âm Hán-Việt hoặc bịa ra nghĩa cho các từ tố.

Đặc biệt, vào năm 2017, nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công đã xuất bản cuốn sách Từ điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – Phê bình và khảo cứu dày hơn 500 trang, trong đó liệt kê hàng trăm (có thể lên đến hàng nghìn) lỗi sai trong các từ điển của Nguyễn Lân, bao gồm:

  • Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam
  • Từ điển từ và ngữ Hán Việt
  • Từ điển từ và ngữ Việt Nam Trong tác phẩm này, Hoàng Tuấn Công cũng đã chỉ ra những lỗi sai cơ bản mang tính hệ thống, thể hiện sự thiếu kiến thức và cách làm việc thiếu cẩn thận, thiếu khoa học của Nguyễn Lân.

Mạo nhận học hàm Giáo sư và sự nhầm lẫn của truyền thông

Lúc sinh thời, trong các tác phẩm của mình viết, Nguyễn Lân luôn đề tên ở bìa sách là Giáo sư Nguyễn Lân. Ví dụ những sách đã xuất bản như Từ điển chính tả phổ thông (1963); Từ điển Tiếng Việt (1967); Từ điển Pháp Việt (1981); Từ điển từ và ngữ Hán Việt (1989); Từ điển Việt Pháp (hợp soạn, 1989); Từ điển thành ngữ và tục ngữ (1989); Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp Việt (1994); Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2002)...đều đề tên là Giáo sư Nguyễn Lân. Tuy nhiên quyết định 162/CP về đợt phong học hàm Giáo sư đầu tiên ở Miền Bắc Việt Nam được ký ngày 11/9/1976 bởi cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gồm 29 người không có tên của Nguyễn Lân và các đợt phong sau đó, các năm 1980, 1984, 1988, 1991... đều không có tên của nhà giáo Nguyễn Lân. Hội thảo đã chưng pano đề tên: "HỘI THẢO KHOA HỌC – NGND GS NGUYỄN LÂN".

Một số tờ báo ở Việt Nam khi viết bài về Nguyễn Lân đã gọi ông là Giáo sư Nguyễn Lân...

Về việc xây lăng mộ cho ông Nguyễn Trường Tộ

Năm 1942, Nguyễn Lân đã gửi số tiền 133$00 cho cố Laygue, linh mục địa phận Xã Đoài để xây lại mộ Nguyễn Trường Tộ. Số tiền đó bao gồm, 110$00 là tiền bán 900 quyển "Nguyễn Trường Tộ" của ông, còn 23p là tiền của những người bạn ông góp vào. Ngôi mộ Nguyễn Trường Tộ hiện nay ở làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Lăng mộ của Nguyễn Trường Tộ đề 2 câu thơ không ghi tên tác giả: :Nhất thất túc thành thiên cổ hận :Cố đầu hồi thị bách niên cơ.

Dịch ra tiếng Việt có nghĩa là: :Một bước sa chân nghìn đời mang hận :Quay đầu nhìn lại, cơ đồ đã hóa trăm năm. Trước đây bia lăng mộ cũ đã bị sứt mẻ mất chữ cuối cùng, khi là người đứng ra xây lại mộ, nhà giáo Nguyễn Lân đã không có ý kiến gì khi người xây mộ khắc hai câu thơ đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chữ cuối cùng là chữ "thân" mới đúng, vì đó là 2 câu thơ cổ của danh tướng Lý Lăng, đời Hán Vũ Đế, Trung Quốc: :Nhất thất túc thành thiên cổ hận :Cố hồi đầu thị bách niên thân

Dịch ra tiếng Việt có nghĩa là: :Một lần sẩy chân, trở thành mối hận ngàn đời :Quay đầu nhìn lại, đã là cái thân trăm năm.

Gia đình

Ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Tề, nữ sinh trường Sainte Marie ở Hà Nội, là con gái nhà đại điền chủ Nguyễn Hữu Tiệp, người có công chính thành lập trường tiểu học Bạch Hạc, Việt Trì. Ông bà có tám người con: 7 trai và 1 gái, dù sinh ra và lớn lên trong Chiến tranh Việt Nam nhưng 8 người con của ông đều không tham gia vào cuộc chiến và không bị tổn thất. Tất cả đều là giảng viên đại học, bảy con ông có học vị tiến sĩ, trong đó có bốn giáo sư, ba phó giáo sư: Người con trai cả là Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Tuất (đã mất), nguyên Chủ nhiệm khoa lý luận và sáng tác của Nhạc viện Novoxibiec, Nga, Phó Chủ tịch Hội người Việt ở Nga, người Việt đầu tiên được phong tặng Nghệ sĩ Công huân Nga (năm 2001). Người con thứ hai là nữ Tiến sĩ Nguyễn Tề Chỉnh (bà đã qua đời), nguyên là giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người con thứ ba là Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân Dũng, Giám đốc Trung tâm vi sinh vật học ứng dụng, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, XI, XII, Giảng viên khoa Sinh học trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn về Khoa học – Giáo dục của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Người con thứ tư là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường, chuyên viên cổ nhân học, Viện khảo cổ học Việt Nam, giảng viên khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Tổng Thư ký Hội Khảo cổ Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Cổ sinh địa tầng Việt Nam, Trưởng ban Kiểm tra Hội Âm nhạc Hà Nội. Người con thứ năm là Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng, Tổng Thư ký Các hội sinh học Việt Nam, giảng viên khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Người con thứ sáu là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Tráng, giảng viên bộ môn Hệ thống điện, khoa Điện, trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ông Tráng có một người con là Nguyễn Lân Thắng,vào tháng 4, năm 2023, Nguyễn Lân Thắng bị tòa ở Hà Nội tuyên phạt 6 năm tù với cáo buộc làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Người con thứ bảy là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng lao động (được trao tháng 12 năm 2015) Nguyễn Lân Việt là Giáo sư đầu ngành Tim mạch Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam, Chủ nhiệm Bộ môn Tim mạch – Đại học Y Hà Nội, Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, nguyên là Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội. Người con út là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lân Trung, nguyên Hiệu Phó Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Việt Nam VFF.

Tác phẩm

Tác phẩm viết về chủ đề giáo dục: Ngữ pháp Việt Nam từ lớp 1 đến lớp 7 (Nhà xuất bản Giáo dục 1956) Lịch sử giáo dục học thế giới (Nhà xuất bản Giáo dục 1958) Giáo trình giáo dục học (Nhà xuất bản Giáo dục 1961, viết chung) Giảng dạy trên lớp (Nhà xuất bản Giáo dục 1961) Công tác chủ nhiệm lớp (Nhà xuất bản Giáo dục 1962) Thuật ngữ tâm lý – giáo dục (1967, viết chung) Biên soạn Từ điển: Từ điển chính tả phổ thông (1963, viết chung) Từ điển tiếng Việt (1967, viết chung) Từ điển Pháp – Việt (Tổ chức Hợp tác văn hóa và kỹ thuật ACCT xuất bản tai Paris năm 1981, viết chung) Từ điển từ và ngữ Hán – Việt (1989) Từ điển Việt – Pháp (viết chung, 1989) Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (1989) Từ điển thành ngữ và tục ngữ Pháp – Việt (1993, Nhà xuất bản Giáo dục) Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt – Pháp (1994, Nhà xuất bản Văn học) Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2002) Nghiên cứu: Nguyễn Trường Tộ (1943) *Khảo thích truyện Trê Cóc (1959) Tiểu thuyết:

  • Cậu bé nhà quê (1925) Truyện ngắn: Khói hương (1935) Ngược dòng (1936)

Vinh danh

Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân đợt đầu tiên. Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến phố ở Hà Nội, đi từ đường Trường Chinh (cạnh bảo tàng Phòng không – Không quân) dọc theo bờ tây sông Lừ đến cuối phố Lê Trọng Tấn ở cạnh sân bay Bạch Mai.

Ở quê nhà của ông ở tỉnh Hưng Yên, huyện Mỹ Hào, Bần Yên Nhân năm 2019 cũng có một đường phố mang tên ông.

Năm 2019, một ngôi trường công lập trung học cơ sở nằm trên địa bàn quận Thanh Xuân, Hà Nội cũng được mang tên ông, nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Lân** (14 tháng 6 năm 1906 – 7 tháng 8 năm 2003) là một giáo viên, người biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có
**[https://lvt.edu.vn/nguyen-lan-dung/ Nguyễn Lân Dũng]**, sinh năm 1938 là một giáo sư tiến sĩ sinh học, Nhà giáo Nhân dân của Việt Nam. Công tác chính của ông là giảng dạy và nghiên cứu tại Viện
**Nguyễn Lân Hiếu** (sinh ngày 14 tháng 9 năm 1972) là bác sĩ, phó giáo sư, tiến sĩ y khoa, chính trị gia người Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
Giáo sư, tiến sĩ khoa học **Nguyễn Lân Tuất** Một năm sau, ông bị thương và được cử sang Trung Quốc để học tiếng Trung trong mấy năm. Sau khi về nước, ông làm phiên
**Nguyễn Lân Việt ** sinh ngày 03 tháng 12 năm 1952 là Bác sĩ,Giáo sư, Tiến sĩ,Anh hùng Lao động, Nhà giáo Nhân dân và là con trai thứ 7 trong tổng số 8 người
nhỏ|phải|Nguyễn Lân Trung (thứ 2 từ trái sang), tháng 12 năm 2020 tại Hà Nội **Nguyễn Lân Trung** (sinh năm 1953) là Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Phó Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá
**Nguyễn Lan Hương** (sinh năm 1968) là nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện giữ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Ủy
**Nguyễn Lân Hùng** (sinh năm 1945) là một chuyên gia nông nghiệp của Việt Nam. Ông từng là giảng viên chính khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện nay ông là
**Nguyễn Lân Thắng** (sinh 1975, cư trú ở quận Đống Đa, Hà Nội) là một kiến trúc sư, blogger nổi tiếng, nhà bất đồng chính kiến, tù nhân lương tâm. ## Tiểu sử Ông Nguyễn
**Nguyễn Lân Cường** là nhà khảo cổ học, nhà giáo, nhà nhân chủng học, nhạc trưởng, nhạc sĩ người Việt Nam. Nguyễn Lân Cường sinh ngày 23 tháng 12 năm 1941, Ông là con thứ
**Đỗ Nguyễn Lan Hà** (sinh ngày 25 tháng 5 năm 1988 tại Quảng Trị) là một nữ diễn viên điện ảnh Việt Nam. Hà nổi tiếng với vai Mai trong bộ phim _Trái tim bé
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
thumb|Dây cầu nguyện đen trong môn phái [[Chính thống giáo Đông phương]] thumb|left|Dây cầu nguyện đa dạng màu sắc **Dây cầu nguyện** ( - _komboskini_; - _chotki_ (most common term) or - _vervitsa_ (literal translation);
**Nguyễn Công Trứ** (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự **Tồn Chất**, hiệu **Ngộ Trai**, biệt hiệu **Hi Văn**, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông
**Nguyễn Phúc Trung** (chữ Hán: 阮福忠), sau gọi là **Tôn Thất Trung**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Ông nổi tiếng vì vụ bê bối
**Nguyễn Bá Liên** (1933-1969), nguyên là một sĩ quan cao cấp thuộc Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân thời kỳ Quân đội Quốc
**Nguyễn Phúc Anh** (chữ Hán: 阮福渶, 1601 - 1635), còn gọi là **Tôn Thất Anh**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Lúc sinh thời ông
**Nguyễn Phúc Kỳ** (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là **Tôn Thất Kỳ** (尊室淇) hay **Ông Hoàng Kỳ**, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Nguyễn Ngọc Bình An**, thường được biết đến với nghệ danh **Kaity Nguyễn** (sinh ngày 9 tháng 4 năm 1999), là một nữ diễn viên kiêm người mẫu người Mỹ gốc Việt hiện đang hoạt
**Nguyễn Thị Duệ** (chữ Hán: 阮氏叡; 1574-1654), hiệu **Diệu Huyền**, là một nữ danh sĩ Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. ## Tiểu sử **Nguyễn Thị Duệ**, có tài liệu
**Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật** (1926–2007) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Xuân Lộc (1988 –2004) và nguyên Chủ
Ngày 10-10-2024, Ban Chỉ đạo vận động hiến máu tình nguyện huyện Giang Thành (tỉnh Kiên Giang) phối hợp với Khoa Huyết học và Truyền máu Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang tổ chức đợt
Cảnh tượng bình nguyên Hoa Bắc vào mùa đông **Bình nguyên Hoa Bắc** hay **đồng bằng Hoa Bắc** (, Hán Việt: Hoa Bắc bình nguyên) được tạo thành từ trầm tích của Hoàng Hà và
**Nguyễn Sỹ Tỳ** (6 tháng 6 năm 1922 – 20 tháng 8 năm 2008) là nhà giáo và nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam. Ông được biết tới với vai trò là Hiệu trưởng
**Nguyễn Văn Hiệu** (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 – mất ngày 23 tháng 1 năm 2022) là giáo sư, nhà vật lý, và chính trị gia của Việt Nam. Ông là ủy viên
**Nguyễn Hữu Tảo** (1900-1966), là một nhà giáo Việt Nam trong thế kỉ 20, người đặt nền móng cho bộ môn Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông cũng là thầy dạy của
MÔ TẢ SẢN PHẨMDưỡng trắng an toàn Vaseline 10X tuýp to 320ML thấm nhanh, không bết dính [ chuẩn Thái]Da trắng- cấp ẩm chuyên sâu- không ngại ra nắngĐừng quên bảo vệ làn da mình
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nguyễn An Ninh** (15 tháng 9 năm 1900 - 14 tháng 8 năm 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Nguyễn Quang Hải** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ
**Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong** là cuộc xung đột giữa xứ Đàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị thời chúa Nguyễn Phúc Lan với Công ty Đông Ấn
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng