✨Nhà Đường
Nhà Đường là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là tiền thân của giai đoạn Ngũ đại Thập quốc (907–979). Triều đại này bị gián đoạn trong thời gian ngắn từ năm 690 đến năm 705, khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, tuyên bố sáng lập nhà Võ Chu và trở thành nữ hoàng đế chính thống duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Các sử gia thường coi nhà Đường là đỉnh cao nền văn minh Trung Quốc, một thời kỳ hoàng kim của văn hóa đa quốc gia. Thông qua các chiến dịch quân sự mà các nhà cai trị sơ kỳ đã liên tục tiến hành, lãnh thổ nhà Đường vào thời điểm cực thịnh rộng lớn hơn bất kỳ triều đại nào trước đó.
Thâu tóm quyền lực khi nhà Tùy bắt đầu suy tàn và sụp đổ, Lý Uyên cùng con trai Lý Thế Dân thành lập nhà Đường, mở ra nửa đầu triều đại tiến bộ và ổn định. Kinh đô Trường An (Tây An ngày nay) của nhà Đường là thành phố đông dân nhất thế giới đương thời. Các cuộc điều tra dân số vào giữa thế kỷ 8 cho biết số lượng người đăng ký hộ tịch của toàn quốc là khoảng 50 triệu và phát triển lên tới khoảng 70 triệu người vào những năm giữa thế kỷ 8. Với nguồn nhân lực dồi dào, nhà Đường nuôi dưỡng các đội quân cả chuyên nghiệp lẫn nghĩa vụ có quân số hàng chục vạn để cạnh tranh với các thế lực du mục, giành quyền kiểm soát Nội Á và nhiều tuyến đường thương mại sinh lời dọc theo Con đường Tơ lụa. Nhiều tiểu quốc, vương quốc gần xa chấp nhận cống nạp cho triều đình nhà Đường trong khi nhà Đường cũng gián tiếp kiểm soát một số vùng lãnh thổ thông qua hệ thống đô hộ phủ. Tước hiệu "Thiên Khả hãn" biến Đường Thái Tông trở thành "hoàng đế đa quốc gia" đầu tiên ở châu Á. Ngoài quyền bá chủ chính trị, nhà Đường còn tạo ra ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ đối với một vài quốc gia Đông Á láng giềng như Nhật Bản và các vương quốc trên bán đảo Triều Tiên.
Thời nhà Đường, văn hóa Trung Quốc phát triển rực rỡ và ngày càng trở nên hoàn thiện. Nhà Đường thường được xem là thời kỳ hoàng kim của thi ca Trung Quốc. Hai trong số những nhà thơ Trung Quốc vĩ đại nhất, Lý Bạch và Đỗ Phủ, cùng nhiều danh họa như Ngô Đạo Tử, Hàn Cán, Vương Duy và Châu Phưởng, đều sống ở thời đại này. Các học giả thời Đường đã biên soạn nhiều tài liệu lịch sử, sách bách khoa toàn thư và tác phẩm địa lý đa dạng. Giai đoạn này cũng chứng kiến nhiều tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật in mộc bản. Phật giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn hóa Trung Quốc, dẫn đến sự ra đời của nhiều tông phái bản địa. Tuy nhiên, tới những năm 840, Đường Vũ Tông ban hành các chính sách bài Phật, khiến tôn giáo này suy giảm dần sức ảnh hưởng.
Trong nửa sau triều đại, Loạn An Sử làm rung chuyển đế quốc, khiến quyền lực trung ương suy yếu trầm trọng. Giống như nhà Tùy trước đó, nhà Đường duy trì hệ thống công vụ nhờ tuyển dụng các sĩ đại phu thông qua hình thức khoa cử và cơ chế tiến cử chức vụ. Trật tự dân sự này bị phá vỡ khi các tiết độ sứ trỗi dậy mãnh liệt trong thế kỷ thứ 9. Chính quyền trung ương bắt đầu suy tàn trong nửa sau thế kỷ thứ 9; dân số suy giảm, dân cư di trú hàng loạt, nghèo đói lan rộng và sự rối loạn chức năng chính phủ là kết quả của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân, mà đỉnh điểm là Loạn Hoàng Sào. Năm 907, tiết độ sứ Chu Toàn Trung soán vị Đường Ai Đế, chính thức đặt dấu chấm hết cho nhà Đường sau gần 3 thế kỷ tồn tại.
Từ nguyên
"Đường" (唐) là tên cũ của nước Tấn, một nước chư hầu thời nhà Chu nằm ở khu vực trung tâm của tỉnh Sơn Tây ngày nay. Thời Nam–Bắc triều, Lý Hổ—một trong Bát Trụ Quốc của triều Tây Ngụy—được phong là Lũng Tây quận công (隴西郡公). Sau khi mất, Lý Hổ được nhà Bắc Chu truy hiệu là Đường quốc công (唐國公), được con là Lý Bính thừa kế. Năm 582, con của Lý Bính là Lý Uyên kế thừa tước vị Đường quốc công, về sau được thăng tước là Đường vương (唐王). Sau khi Lý Uyên soán ngôi Tùy Cung Đế, ông đã sử dụng quốc hiệu là "Đường".
Lịch sử
Thành lập
Lũng Tây Lý thị là một gia tộc thuộc tầng lớp quý tộc quân sự, cát cứ ở vùng tây bắc vào thời nhà Tùy. Họ tự xưng là dòng dõi phụ hệ của thủy tổ Đạo giáo Lão Tử, tướng Lý Quảng thời nhà Hán và Vũ Vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Thập lục quốc. Các hoàng đế nhà Đường cũng mang dòng dõi Tiên Ti theo mẫu hệ, vì mẹ của Đường Cao Tổ, Độc Cô thị, là người Tiên Ti.
Lưu thủ Thái Nguyên Lý Uyên vốn là em họ của Tùy Dạng Đế, có thanh thế và rất giàu kinh nghiệm trận mạc. Sau thất bại trong ba lần xâm lược Cao Câu Ly đầy tốn kém của Dạng Đế, quốc lực nhà Tùy suy yếu trầm trọng, dẫn đến sự bùng nổ của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân trên khắp cả nước. Năm 617, Lý Uyên cùng các con khởi binh tạo phản ở Thái Nguyên. Mùa đông cùng năm, sau khi chiếm được kinh đô Đại Hưng, ông lập Thái tử Dương Hựu làm hoàng đế, tôn Tùy Dạng Đế làm thái thượng hoàng, đồng thời giữ vai trò nhiếp chính cho hoàng đế bù nhìn. Ngày 18 tháng 6 năm 618, sau khi nhận được tin Dạng Đế bị Vũ Văn Hóa Cập sát hại, Lý Uyên phế Dương Hựu, tự lập làm hoàng đế, đổi quốc hiệu là "Đường".
Lý Uyên, tức Đường Cao Tổ, tại vị đến năm 626 thì bị Tần vương Lý Thế Dân ép nhường ngôi. Lý Thế Dân bắt đầu cầm quân từ năm 18 tuổi, cung kiếm, đao thương đều rất giỏi, nổi danh với nhiều trận đột kích kỵ binh hiệu quả. Trong trận Hổ Lao diễn ra vào ngày 28 tháng 5 năm 621, Lý Thế Dân đã giành chiến thắng ngay cả khi phải đối mặt với lực lượng áp đảo quân số của Đậu Kiến Đức (573–621). Ngày 2 tháng 7 năm 626, trong chính biến Huyền Vũ Môn, vì lo ngại bị ám sát, Lý Thế Dân phục kích và giết chết em trai là Lý Nguyên Cát (sinh 603) cùng huynh trưởng là Thái tử Lý Kiến Thành (sinh 589). Ngay sau đó, Đường Cao Tổ thoái vị, Lý Thế Dân lên ngôi, tức Hoàng đế Đường Thái Tông.
Bất chấp việc hạ bệ cha và giết anh em ruột đi ngược lại với quan điểm về lòng hiếu thảo của Nho giáo, Đường Thái Tông đã chứng tỏ được năng lực của bản thân, biết lắng nghe ý kiến từ những thành viên tài trí nhất trong triều đình của mình. Năm 628, ông cho cử hành đại lễ Phật giáo tưởng niệm thương vong chiến tranh. Một năm sau, Đường Thái Tông cho xây dựng tu viện Phật giáo tại những địa điểm từng diễn ra các trận đánh lớn để các nhà sư có thể tụng kinh siêu độ vong linh cho những người đã ngã xuống, mà trong đó có cả kẻ thù của ông.
Mở rộng lãnh thổ
upright|nhỏ|trái|Lãnh thổ Đại Đường được mở rộng tối đa dưới thời [[Đường Cao Tông]] Sau khi ổn định tình hình trong nước, Đường Thái Tông theo đuổi chính sách bành trướng lãnh thổ. Năm 630, nhân lúc Đông Đột Quyết xảy ra nội loạn, tướng Lý Tĩnh (571–649) dẫn quân Bắc phạt, bắt sống Khả hãn Hiệt Lợi và tiêu diệt nhà nước này. Sau chiến thắng này, các bộ lạc thảo nguyên lần lượt quy phục nhà Đường, tôn Đường Thái Tông là "Thiên Khả Hãn". Trong những năm cuối đời, Thái Tông tiếp tục thực hiện các chiến dịch lớn về phía Tây nhằm vào các tiểu quốc ốc đảo nằm dọc theo Con đường tơ lụa tại Lòng chảo Tarim như Cao Xương vào năm 640, Yên Kỳ vào năm 644 và 648, và Quy Từ vào năm 648. Sau khi Thái Tông qua đời vào năm 649, Đường Cao Tông tiếp tục khuếch trương thế lực về phía Tây. Năm 657, sau khi tướng Tô Định Phương đánh bại được Khả hãn A Sử Na Hạ Lỗ, Hãn quốc Tây Đột Quyết chính thức bị Đại Đường thôn tính.
Tại khu vực Đông Bắc, Thái Tông phát động một cuộc xâm lược quy mô lớn nhằm vào Cao Câu Ly vào năm 644. Tuy giành được những thắng lợi sơ khởi song quân Đường phải rút lui do không thể xuyên thủng phòng tuyến của Uyên Cái Tô Văn (603–666). Năm 660, dưới thời Cao Tông, quân Đường với sự trợ giúp của Tân La đã thành công đánh bại Bách Tế. Tàn quân Bách Tế cầu viện đồng minh là Yamato (Nhật Bản), song liên quân hai nước này bị quân Đường và Tân La dưới sự chỉ huy của Tô Định Phương và Kim Dữu Tín (595–673) tiêu diệt trong trận Bạch Giang vào tháng 8 năm 663. Về phần Cao Câu Ly, nước này đã bị suy yếu trầm trọng bởi những xung đột nội bộ và việc để mất nhiều thành trì trọng yếu ở biên ải vào tay quân Đường trong năm 645. Năm 668, Cao Câu Ly thất thủ trước liên quân Đường – Tân La do Lý Thế Tích (594–669) chỉ huy.
Võ hậu cướp ngôi
thumb|upright|[[Võ Tắc Thiên là nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất được công nhận trong lịch sử Trung Quốc. Bà điều khiển chính sự dưới triều đại của chồng và hai con trước khi đích thân trở thành hoàng đế.]] Tuy nhập cung với danh phận tài nhân thấp kém, Võ Tắc Thiên vươn lên nắm giữ quyền lực tối thượng vào năm 690 và thành lập triều đại Võ Chu tồn tại trong một thời gian ngắn. Võ hậu giành được đại quyền bằng những thủ đoạn tàn nhẫn và đầy toan tính. Một trong những thuyết âm mưu nổi tiếng nhất cho rằng chính Võ Tắc Thiên đã giết con gái và đổ lỗi cho Vương Hoàng hậu, khiến bà bị phế truất. Năm 655, Cao Tông đột quỵ, Võ hậu buông rèm nhiếp chính, đích thân xử lý quốc sự với các đại thần. Nhiều người nghi ngờ chính bà là người ra tay sát hại con ruột là Thái tử Lý Hoằng khi ông đột ngột qua đời năm 675. Nguyên nhân có thể là do ông đã dần chứng tỏ thực lực bản thân và thường xuyên ra mặt ủng hộ những chính sách mà Võ hậu phản đối. Thái tử kế tiếp, Lý Hiền, tuy cam chịu thủ phận, nhưng vẫn bị mẹ khép vào tội mưu phản và đày đến biên ải, ít lâu sau thì bị bức tử.
Năm 683, Đường Cao Tông băng hà và được nối ngôi bởi người con lớn tuổi nhất còn sống của Võ hậu là Đường Trung Tông. Trung Tông cố gắng bổ nhiệm quốc cữu làm tể tướng, nhưng đã bị Võ hậu phế truất và thay thế bởi em trai là Duệ Tông chỉ sau sáu tuần tại vị. Sự việc đã kích động một nhóm tông thất nổi dậy vào năm 684, nhưng họ bị triều đình đàn áp chỉ trong vòng hai tháng. Ngày 16 tháng 10 năm 690, Võ hậu cải nguyên niên hiệu thành Thiên Thuận, quốc hiệu thành Chu (周), chính thức lên ngôi đại thống, trở thành nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đường Duệ Tông bị giáng xuống làm thái tử và bị buộc phải đổi sang họ Võ của mẹ.
Trong khoảng thời gian tại vị, về mặt đối nội, Võ Tắc Thiên tập trung phát triển kinh tế xã hội, tiến hành cải cách chữ viết, duy trì sự ổn định trong nước. Về mặt đối ngoại, bà tiến hành các cuộc chiến ở Nội Á, giành lại quyền kiểm soát lãnh thổ An Tây độ hộ phủ từng rơi vào tay người Thổ Phồn. Là một người sùng đạo, Võ Tắc Thiên khuyến khích phát triển Phật giáo, hạ lệnh trong nước tích cực xây dựng chùa chiền, tăng cường biên dịch kinh Phật. Sau 15 năm tại vị, Võ Tắc Thiên bị ép phải thoái vị vào này 22 tháng 2 năm 705 trong một cuộc chính biến cung đình. Đường Trung Tông phục vị, khôi phục quốc tính thành họ Lý và quốc hiệu "Đường" như cũ. Vài tháng sau, Võ hậu qua đời.
Trước khi lên ngôi, nhằm hợp pháp hóa quyền cai trị của mình, Võ hậu đã cho một nhóm nhà sư biên soạn Đại Vân kinh (大雲經) ca ngợi bà là Phật Di Lặc hóa thân xuống trần gian để trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương làm chủ thiên hạ, phổ độ chúng sinh. Phần lớn các cải cách của Võ Tắc Thiên đều bị những người kế nhiệm hủy bỏ sau khi bà qua đời. Tuy nhiên, có thể nói, thành tựu lớn nhất của Võ Tắc Thiên là hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc Tây Bắc, tạo điều kiện cho những người đến từ các gia tộc khác hay khu vực khác của Trung Quốc có cơ hội thể hiện tiếng nói trong triều đình.
Triều đại của Đường Huyền Tông
nhỏ|upright|trái|Trong thời gian [[Đường Huyền Tông nắm quyền, nhà Đường bước vào thời thịnh trị kéo dài 40 năm, gọi là Khai Nguyên thịnh thế (開元盛世)]] Dưới và sau triều đại của Võ Tắc Thiên, chốn cung đình xuất hiện nhiều nữ nhân nổi bật, bao gồm Thượng Quan Uyển Nhi (664–710), một nhà thơ, nhà văn và nội quan thân cận của Võ hậu, giữ nhiệm vụ xử lý tấu chương. Năm 706, Vi Hoàng hậu (mất 710) thuyết phục Đường Trung Tông cho phép mình cùng các chị em ruột và con gái của bà tham dự triều chính. Năm 709, bà yêu cầu hoàng đế trao cho nữ giới quyền mẹ truyền con nối (mà trước đây vốn chỉ là cha truyền con nối). Năm 710, Vi Hoàng hậu hạ độc sát hại Trung Tông, đưa Thái tử Lý Trọng Mậu mới 15 tuổi lên ngôi. Hai tuần sau, Lý Long Cơ cùng thủ hạ vào cung giết Vi Hoàng hậu, phục hồi đế vị cho cha là Duệ Tông. Tương tự như Trung Tông trước đó, Duệ Tông hoàn toàn không có thực quyền khi ông bị Thái Bình công chúa khống chế. Tình trạng nữ nhi tham chính chỉ kết thúc khi Duệ Tông truyền ngôi cho Lý Long Cơ, tức Đường Huyền Tông và âm mưu chính biến của Thái Bình công chúa bị dập tắt vào năm 712.
Nhà Đường bước vào giai đoạn đỉnh cao dưới triều đại kéo dài 44 năm của Đường Huyền Tông, một thời kỳ hoàng kim được đánh dấu bởi tỷ lệ lạm phát kinh tế thấp cùng lối sống cung đình không quá phô trương. Được xem là một nhà lãnh đạo cấp tiến và nhân từ, Huyền Tông thậm chí đã bãi bỏ án tử hình vào năm 747. Tất cả các án tử hình đều phải do đích thân hoàng đế phê chuẩn (số lượng tương đối ít, ví dụ năm 730 chỉ có tổng cộng 24 vụ hành quyết được thông qua). Huyền Tông cố gắng giữ cân bằng chính trị bằng cách bổ nhiệm các phe phái vào những vị trí trong lục bộ một cách công bằng. Là một người thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, Thượng thư hữu thừa tướng Trương Cửu Linh (673–740) thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu lạm phát và gia tăng nguồn cung tiền bằng cách duy trì sự lưu thông của tiền đúc tư nhân. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ của nhà Đường đã thay đổi dưới nhiệm kỳ của người kế nhiệm Lý Lâm Phủ. Là một người trưởng giả, kỹ trị, ông ủng hộ sự độc quyền của triều đình đối với việc phát hành tiền đúc. Kể sau năm 737, Huyền Tông đặt sự tin tưởng vào Lý Lâm Phủ, người ủng hộ chính sách đối ngoại bành trướng và sử dụng các tướng lĩnh không phải là người Hán. Tuy nhiên, chính sách này rốt cuộc đã tạo điều kiện cho một cuộc nổi dậy quy mô lớn chống lại nhà Đường.
Loạn An Sử và thiên tai
thumb|phải|Bản đồ 10 phiên trấn và binh lực của họ dưới thời Đường Huyền Tông Nhà Đường đang trong thời kỳ hoàng kim vào giữa thế kỷ 8 khi Loạn An Sử bùng nổ phá hủy sự thịnh vượng của đế quốc. An Lộc Sơn, một viên tướng gốc Túc Đặc–Đột Quyết, được giao nhiệm vụ trấn giữ biên giới phía bắc trước người Khiết Đan kể từ năm 744, song các chiến dịch của ông ta đa phần đều không mang lại kết quả nào. Tuy nhiên, nhờ được lòng hoàng đế, An Lộc Sơn trở thành Tiết độ sứ Hà Đông, Bình Lô, Phạm Dương, nắm giữ trong tay toàn bộ khu vực Đông Bắc và 1/3 binh mã triều đình, cho phép ông có thể nổi dậy với một đội quân trên 10 vạn người. Sau khi chiếm được Lạc Dương, An Lộc Sơn xưng đế và tuyên bố thành lập nước Yên. Tuy giành được một số thắng lợi sơ khởi song quân đội triều đình, vốn chủ yếu là dân binh, dưới trướng Quách Tử Nghi (697–781) không thể chống cự lâu trước đội quân dày dặn kinh nghiệm trận mạc nơi biên ải của An Lộc Sơn. Trước sự áp sát của quân nổi dậy, triều đình nhà Đường bị buộc phải triệt thoái khỏi Trường An. Trong lúc Thái tử Lý Hanh chạy tới Sơn Tây để mộ binh còn Huyền Tông chạy vào đất Thục, nhà Đường đã phải cầu viện Hãn quốc Hồi Cốt. Khả hãn Bayanchur khi hay tin đã rất phấn khích, ngay lập tức gả con gái cho sứ giả nhà Đường khi ông ta vừa tới nơi, đổi lại, vị khả hãn trở thành phò mã nhà Đường. Người Hồi Cốt giúp nhà Đường chiếm lại kinh đô Trường An, nhưng không chịu rút lui cho đến khi nhà Đường chịu trả một khoản cống nạp khổng lồ bằng lụa. Ngoài Hồi Cốt, nhà Đường còn nhận được sự hỗ trợ từ nhà Abbas của người Ả Rập Hồi giáo. Cũng trong thời gian này, người Thổ Phồn lợi dụng chiến loạn ở Trung Nguyên để đánh phá nhiều khu vực nằm dưới sự kiểm soát của người Hán ở Trung Á. Ngay cả sau khi Thổ Phồn sụp đổ vào năm 842 (tiếp đó là người Hồi Cốt), nhà Đường không còn đủ sức để giành lại lãnh thổ Trung Á đã mất sau năm 763. Những tổn thất mà Loạn An Sử gây ra nghiêm trọng tới mức nửa thế kỷ sau, các thí sinh tham gia kỳ thi tiến sĩ được yêu cầu viết bài luận về nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của nhà Đường. Dù An Lộc Sơn đã bị một hoạn quan hạ sát vào năm 757, song chiến loạn chỉ kết thúc khi thủ lĩnh quân nổi dậy là Sử Tư Minh bị chính con trai ruột sát hại vào năm 763.
trái|thumb|[[Lạc Sơn Đại Phật, cao ; khởi công năm 713, hoàn thành năm 803]]
Một trong những di sản mà chính quyền nhà Đường để lại sau năm 710 là sự trỗi dậy của các tiết độ sứ, những người dần dần thách thức chính quyền trung ương. Sau Loạn An Sử, quyền lực và mức độ tự trị mà các tiết độ sứ Hà Bắc có được đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính quyền trung ương. Sau hàng loạt các cuộc nổi dậy giữa năm 781 và 784, tại các vùng Hà Bắc, Sơn Đông, Hồ Bắc và Hà Nam ngày nay, triều đình nhà Đường đã phải chính thức công nhận tính thế tập đối với chức vị tiết độ sứ. Để đề phòng ngoại xâm hoặc nội loạn, chính quyền nhà Đường buộc phải dựa dẫm vào các tiết độ sứ. Triều đình phải thừa nhận quyền duy trì quân đội riêng, thu thuế của các tiết độ sứ và thậm chí là cho phép con cái họ thừa hưởng tước vị của cha. Theo thời gian, những võ quan này dần dần làm phai mờ sự ảnh hưởng của các quan văn được tuyển chọn thông qua hình thức khảo thí. Sự cai trị của các tiết độ sứ hùng mạnh này chỉ kết thúc vào năm 960 khi nhà Tống tiến hành cải cách hành chính. Bên cạnh đó, chế độ Quân điền bị bãi bỏ tạo điều kiện cho mọi người có thể tự do mua bán đất đai. Nhiều người nghèo lâm vào cảnh nợ nần, buộc phải bán đất làm thuê cho các gia đình địa chủ, dẫn đến sự hình thành và phát triển nhanh chóng của hàng loạt điền trang lớn. Cùng với sự sụp đổ của chế độ quân điền sau năm 755, chính quyền trung ương gần như đánh mất vai trò quản lý nông nghiệp, chỉ còn đơn thuần là người thu sưu thuế trong khoảng một thiên niên kỷ, với một vài ngoại lệ như công cuộc quốc hữu hóa đất đai thất bại của nhà Tống trong cuộc chiến với người Mông Cổ ở thế kỷ 13.
thumb|[[Nam Thiền tự trên Ngũ Đài sơn, xây dựng vào thế kỷ 8]]
Với việc chính quyền trung ương đánh mất quyền kiểm soát đối với nhiều khu vực khác nhau, ghi chép cho thấy vào năm 845, có những nhóm thảo khấu, thủy tặc quy mô hàng trăm người thường xuyên cướp bóc các khu dân cư dọc theo sông Trường Giang mà không gặp phải sự chống cự nào. Năm 858, một trận lụt lớn dọc Đại Vận Hà đã làm ngập nhiều vùng đất và địa hình rộng lớn của Bình nguyên Hoa Bắc, khiến hàng vạn người chết đuối. Hàng loạt thiên tai ập đến khiến nhiều người dân tin rằng nhà Đường đã đánh mất thiên mệnh. Năm 873, mùa màng thất bát đã làm lung lay đế quốc Đại Đường, với sản lượng lương thực tại một số khu vực chỉ đạt một nửa, dẫn đến hàng vạn người phải đối mặt với nạn đói. Vào thời Sơ Đường, triều đình đủ khả năng để có thể ứng phó hiệu quả trước những nguy cơ mất mùa. Ví dụ, trong khoảng thời gian 714–719, chính quyền nhà Đường đã ứng phó thiên tai một cách hiệu quả bằng cách mở rộng hệ thống Thường Bình thương (常平倉) điều tiết giá cả lương thực cả nước. Thông qua đó, chính phủ có thể xây dựng kho dự trữ lương thực, ngăn chặn nạn đói tiềm ẩn và tăng năng suất nông nghiệp thông qua khai hoang. Tuy nhiên, sang thế kỷ thứ 9, triều đình gần như bất lực trong việc đối phó với thiên tai.
Tái thiết và phục hồi
thumb|upright|left|Tháp Tu Di ở [[Chính Định, Hà Bắc, xây dựng năm 636]] Mặc dù các cuộc thiên tai và nổi loạn cản trở chính quyền trung ương hoạt động một cách hiệu quả, nửa đầu thế kỷ 9 vẫn được xem là giai đoạn phục hồi của nhà Đường. Việc chính phủ rút khỏi vai trò quản lý kinh tế đã vô tình kích thích thương mại, khi ngày càng có nhiều thị trường với ít hạn chế quan liêu xuất hiện. Năm 780, các loại thuế đinh, thuế hộ và thuế ruộng (tô dung điệu) được thay thế bằng thuế nửa năm trả bằng tiền mặt (lưỡng thuế pháp), đánh dấu sự chuyển dịch sang nền kinh tế tiền tệ được tầng lớp thương nhân thúc đẩy. Các thành phố vùng Giang Nam như Dương Châu, Tô Châu và Hàng Châu phát triển mạnh mẽ về mặt kinh tế vào thời Vãn Đường. Nền độc quyền muối của chính phủ đã suy yếu sau Loạn An Sử, nay được đặt dưới sự kiểm soát của một cơ quan quản lý muối. Cơ quan này theo thời gian dần trở thành một trong những cơ quan nhà nước quyền lực nhất, được điều hành bởi các vị quan năng lực có chuyên môn. Quan phủ tiến hành bán muối độc quyền cho thương nhân, sau đó thương nhân sẽ vận chuyển và bán cho người dân tại các thị trường địa phương với giá cao. Năm 799, lợi nhuận từ muối chiếm một nửa doanh thu chính phủ. S.A.M. Adshead cho rằng hình thức thuế muối thời nhà Đường là "lần đầu tiên [trong lịch sử], thuế gián thu, thay vì thuế đánh trực tiếp vào đất đai hoặc con người, hay lợi nhuận từ các doanh nghiệp nhà nước như hầm mỏ, trở thành nguồn thu chính của một nước lớn." Ngay cả khi quyền lực chính quyền trung ương bị lung lay trong nửa sau thế kỷ thứ 8, triều đình vẫn có thể hoạt động và ban hành chính lệnh trên quy mô lớn. Cựu Đường thư, biên soạn vào năm 945, ghi lại rằng vào năm 828, triều đình đã ban hành sắc lệnh tiêu chuẩn hóa máy bơm xích vận hành thủ công bằng chân (翻車) dùng cho tưới tiêu trên phạm vi toàn quốc:
Thái Hòa năm thứ hai [828], tháng hai [...] triều đình xuống chiếu [áp dụng] một kiểu mẩu máy bơm xích (牙車) tiêu chuẩn, dân chúng phủ Kinh Triệu được lệnh chế tạo số lượng lớn máy móc nhằm phân phát cho người dân dọc theo kênh Trịnh Bạch (鄭白渠), phục vụ cho mục đích tưới tiêu.
Vị hoàng đế đầy tham vọng cuối cùng của nhà Đường là Đường Hiến Tông (). Triều đại của ông được hỗ trợ bởi các cải cách tài khóa thi hành vào thập niên 780. Hoàng đế sở hữu trong tay lực lượng Thần Sách quân tinh nhuệ đóng tại phủ Kinh Triệu, với số lượng binh lính lên tới 24 vạn người vào năm 798. Giữa các năm 806 và 819, Hiến Tông thực hiện tổng cộng bảy chiến dịch quân sự lớn nhằm bình định các phiên trấn không quy phục triều đình. Ngoại trừ hai trấn, toàn bộ các phiên trấn đều lần lượt quy thuận triều đình. Dưới triều đại của mình, Hiến Tông tạm thời chấm dứt chế độ cha truyền con nối ở các phiên trấn bằng cách bổ nhiệm những tướng lĩnh thân cận và biên chế các quan văn vào các cơ quan hành chính địa phương. Tuy nhiên, các vị hoàng đế kế nhiệm ông tỏ ra kém năng lực, thường xuyên dành nhiều thời gian tiêu khiển, săn bắn, yến tiệc hay chơi các môn thể thao ngoài trời. Điều này cho phép hoạn quan thâu tóm quyền lực, trong khi quan viên lại chia bè đảng, tranh quyền lẫn nhau. Nhằm diệt trừ nạn hoạn quan tham chính, Đường Văn Tông âm mưu thực hiện một cuộc chính biến cung đình nhưng không thành công. Thay vào đó, các đại thần ủng hộ ông bị hoạn quan hành quyết công khai ở khu chợ Tây thành Trường An. Sau sự kiện này, cục diện hoạn quan lộng quyền tiếp tục cho đến tận những năm cuối triều Đường.
thumb|Bích họa thời Vãn Đường miêu tả Trương Nghị Triều thống quân đẩy lui Thổ Phồn. Hang số 156 trong quần thể hang Mạc Cao.
Nhà Đường khôi phục quyền kiểm soát gián tiếp đối với một số lãnh thổ cũ ở phía Tây như Hành lang Hà Tây và Đôn Hoàng ở Cam Túc. Năm 848, một viên tướng người Hán là Trương Nghĩa Triều từ Sa Châu đã nhân khi Thổ Phồn có nội loạn, nổi dậy giành quyền kiểm soát khu vực rồi đem lãnh thổ quy phục triều Đường. Trương Nghĩa Triều sau đó được Đường Tuyên Tông phong làm Sa Châu phòng ngự sử và Quy Nghĩa quân tiết độ sứ.
Sụp đổ
Bên cạnh thiên tai cũng như nạn phiên trấn cát cứ, Khởi nghĩa Hoàng Sào nổ ra vào năm 874 khiến triều đình nhà Đường phải mất cả thập kỷ để đàn áp. Hai thành Trường An và Lạc Dương bị cướp phá, quốc lực nhà Đường ngày càng suy kiệt và vĩnh viễn không thể phục hồi sau cuộc nổi dậy này, tạo điều kiện cho các thế lực quân sự trỗi dậy và thay thế. Các băng đảng thổ phỉ lớn hoành hành ở các vùng nông thôn vào những năm cuối triều Đường, tổ chức buôn lậu muối bất hợp pháp, phục kích cướp bóc các đoàn thương nhân hay thậm chí là vây hãm nhiều thành trì. Trong bối cảnh nạn cướp bóc hoành hành và xung đột phe phái trong triều đình giữa hoạn quan và quan lại, các gia đình thuộc tầng lớp quý tộc, vốn tích lũy được nhiều đất đai và chức vụ, phần lớn đều mất tài sản hoặc bị cho ra rìa.
Vào hai thập kỷ cuối cùng của nhà Đường, sự sụp đổ từ từ của chính quyền trung ương dẫn đến sự trỗi dậy của hai nhân vật quân sự hùng mạnh đối địch nhau, tranh giành quyền kiểm soát miền Bắc Trung Quốc, là Chu Ôn và Lý Khắc Dụng. Quân đội nhà Đường đánh bại Hoàng Sào với sự giúp đỡ từ bộ tộc Sa Đà dân tộc Đột Quyết ở Sơn Tây. Với những chiến công của mình, Lý Khắc Dụng được phong làm tiết độ sứ, tước vị Tấn Vương và được ban quốc tính. Chu Ôn vốn là một tay buôn lậu muối, sau trở thành một tướng lĩnh trong đội quân nổi dậy của Hoàng Sào, nhưng đã quy thuận triều đình. Nhờ có công trong cuộc chiến chống Hoàng Sào, Chu Ôn được ban tên "Toàn Trung" và được bổ nhiệm làm Tuyên Vũ tiết độ sứ.
Năm 901, từ cơ sở quyền lực tại thành Đại Lương (Khai Phong ngày nay), Chu Toàn Trung giành quyền kiểm soát kinh đô Trường An, khống chế thiên tử. Năm 903, ông ép Đường Chiêu Tông phải dời đô đến Lạc Dương, chuẩn bị cho âm mưu soán vị. Năm 904, ông sát hại Đường Chiêu Tông, tôn hoàng tử Lý Chúc mới 12 tuổi làm hoàng đế mới, tức Đường Ai Đế. Để ngăn ngừa sự phản kháng, trong hai năm 905 và 906, Chu Toàn Trung sát hại toàn bộ anh em cũng như mẹ của Đường Ai Đế là Hà Thái hậu và hàng chục quan lại trong triều. Năm 907, Chu Toàn Trung soán ngôi nhà Đường, thành lập nhà Hậu Lương, mở đầu thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Năm 908, Chu Toàn Trung hạ độc giết Đường Ai Đế.
Đại kình địch của Chu Toàn Trung là Lý Khắc Dụng qua đời vào năm 908, nhưng vì lòng trung thành với nhà Đường, ông không bao giờ xưng đế. Con trai của ông là Lý Tồn Úc (tức Hậu Đường Trang Tông) thừa hưởng tước vị Tấn vương và chức vụ Hà Đông tiết độ sứ của cha, tiếp tục cuộc chiến trường kỳ chống lại Hậu Lương. Năm 923, Lý Tồn Úc xưng đế, khôi phục quốc hiệu "Đường". Cuối năm đó, ông tiêu diệt nhà Hậu Lương, thống nhất miền Bắc Trung Quốc. Miền Nam Trung Quốc sẽ vẫn bị chia cắt thành nhiều vương quốc nhỏ khác nhau cho đến khi phần lớn Trung Quốc được thống nhất dưới thời nhà Tống (960–1279). Giai đoạn này cũng chứng kiến sự trỗi dậy của nhà Liêu của người Khiết Đan, trở thành thế lực kiểm soát khu vực Đông Bắc Trung Quốc và Mãn Châu. Mặc dù thủ lĩnh người Khiết Đan là Gia Luật A Bảo Cơ từng liên minh cùng Lý Khắc Dụng để chống Chu Toàn Trung, nhưng chính nhà Liêu cuối cùng đã hỗ trợ một thủ lĩnh Sa Đà khác là Thạch Kính Đường lật đổ Hậu Đường và thành lập nhà Hậu Tấn vào năm 936.
Hành chính và chính trị
Luật pháp và thể chế chính trị
thumb|upright|Tượng đất nung [[Tam thải của một vị quan trong triều phục, đầu đội mũ quyển vân, tay cầm hốt.]] Sau khi lên ngôi, Đường Thái Tông thực hiện nhiều cải cách nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ từng là mối họa của các triều đại trước đó. Ông tham khảo luật cũ triều Tùy để san định bộ pháp điển mới, gọi là Đường luật (唐律), trở thành cơ sở cho hệ thống luật pháp của các triều đại sau này và các nước lân bang như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Bộ Đường luật sớm nhất còn tồn tại đến ngày nay, "Vĩnh Huy luật sớ", ban hành vào năm 653, gồm 12 quyển chia thành 500 điều, quy định các tội danh và hình phạt khác nhau, với thứ tự khung hình phạt từ nhẹ nhất đến nặng nhất là "si hình" (đánh roi), "trượng hình" (đánh trượng), "lưu hình" (đày), "đồ hình" (lao động khổ sai) và "tử hình" (giết).
Luật nhà Đường nhìn chung tuy khoan dung hơn luật pháp các triều đại trước, song vẫn phản ánh sự phân biệt đẳng cấp và giai cấp, ví dụ nếu tôi tớ giết chủ hoặc cháu giết chú, hình phạt sẽ khác với chủ giết tớ, hoặc chú giết cháu. Tóm lại, nếu một người nằm trong diện "bát nghị" phạm tội, chỉ cần không phạm phải một trong thập ác, đều có thể được giảm nhẹ hoặc miễn chịu hình phạt. Luật pháp nhà Đường là cơ sở hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Trung Hoa sau này. Hình thức và nội dung cơ bản của Đường luật tuy phần lớn được giữ nguyên trong pháp điển các triều đại sau này, song một số chỗ đã được sửa chữa và san định, chẳng hạn như những cải thiện về quyền sở hữu tài sản của phụ nữ trong luật lệ nhà Tống.
Nhà Đường kế thừa thể chế chính trị nhà Tùy, áp dụng quan chế Tam tỉnh Lục bộ. Tam tỉnh là Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh, có nhiệm vụ biên soạn, xét duyệt và quán triệt chấp hành các chính lệnh, chính sách trung ương. Lục bộ trực thuộc Thượng thư tỉnh, bao gồm Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ, Công bộ, có vai trò thi hành các chính sách, song mỗi bộ đều được giao những nhiệm vụ khác nhau. Hệ thống Tam tỉnh tuy không duy trì lâu dài sau khi nhà Đường chấm dứt, song hệ thống Lục bộ vẫn tiếp tục tồn tại đến khi chế độ quân chủ Trung Quốc sụp đổ vào năm 1912.
Tuy các vị hoàng đế sáng lập nhà Đường luôn muốn tái hiện lại sự vinh quang của nhà Hán (202 TCN–220), song tổ chức hành chính nhà Đường về cơ bản mô phỏng hệ thống cũ thời Nam–Bắc triều. Về mặt quân sự, nhà Đường duy trì chế độ Phủ binh của nhà Bắc Chu (thế kỷ thứ 6), binh lính khi thì đóng quân ở Trường An hoặc nơi biên ải, khi thì về địa phương canh tác ruộng đất. Nhà Đường kế thừa chế độ Quân điền từ triều Bắc Ngụy (386–534), song có nhiều cải tiến.
Khoa cử
thumb|left|Sĩ tử xem tên những người được xướng danh trên bảng vàng. Họa phẩm của [[Cừu Anh.]] Nhà Đường là triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc hệ thống hóa chế độ tuyển chọn hiền tài bằng hình thức khảo thí. Sĩ tử đỗ đạt qua thi cử có thể được bổ nhiệm vào các chức vụ trong bộ máy quan liêu, có thể là ở địa phương hoặc trung ương. Ba loại khoa thi trong hệ thống khoa cử triều Đường là sinh đồ, cống cử và chế cử. Các sĩ tử đậu khoa sinh đồ và cống cử sẽ được chia thành ba hạng tú tài (秀才), tiến sĩ (進士) và minh kinh (明經). Mỗi hạng có cách thi khác nhau, trong đó tú tài thi về phương lược trị nước, tiến sĩ thi về tạp văn, thi phú và thời vụ, minh kinh thì yêu cầu sĩ tử thể hiện sự am hiểu về Ngũ kinh. Bên cạnh khả năng văn chương, các sĩ tử cũng sẽ được xét tuyển thông qua khả năng ứng xử, vẻ bề ngoài, tiếng nói, chữ viết. Những tiêu chí chọn lựa trên có phần thiên vị các sĩ tử dòng dõi trâm anh thế phiệt, trong khi những người có địa vị xã hội thấp, gia cảnh nghèo khó, không đủ tài chính chi trả thầy dạy, thì gặp nhiều hạn chế hơn. Mặc dù vào thời Đường, số lượng quan chức dân sự có xuất thân thế tộc là tương đối lớn, song tiền bạc và địa vị không phải là những điều kiện cần thiết của sĩ tử. Bất kỳ ai không xuất thân từ tầng lớp nghệ nhân hoặc thương nhân đều có thể tham gia các kỳ khoa cử bất kỳ. Tuy nhiên, những người sau khi thi đậu còn cần phải vượt qua kỳ khảo hạch của Bộ Lại mới có thể ra làm quan.
Để thúc đẩy và phổ biển Nho học, triều đình nhà Đường cho mở các trường lớp do nhà nước quản lý, đồng thời phát hành phiên bản tiêu chuẩn của Ngũ kinh kèm theo chú giải. Mặc dù mục đích chính của khoa cử là tìm kiếm hiền tài cho bộ máy chính quyền, song có lẽ một nguyên nhân khác mà các vị hoàng đế nhà Đường cân nhắc đó chính là ngăn ngừa sự lệ thuộc vào các gia đình thế phiệt bằng cách tuyển dụng một nhóm quan chức không vây cánh, không có thế lực đứng sau hậu thuẫn. Pháp chế nhà Đường đảm bảo sự phân chia tài sản một cách bình đẳng giữa những người con trong một gia đình, thúc đẩy tính linh động xã hội bằng cách ngăn chặn các gia đình quyền thế có thể trở thành tầng lớp quý tộc địa chủ nếu chỉ mỗi người con trai trưởng thừa kế toàn bộ tài sản. Hệ thống khoa cử tỏ ra thành công khi sĩ đại phu xây dựng được địa vị tại các cộng đồng địa phương, trong khi hình thành một thứ tinh thần kết nối con người họ với triều đình. Từ thời nhà Đường cho đến khi nhà Thanh kết thúc vào năm 1912, tầng lớp sĩ đại phu đóng vai trò trung gian giữa người dân và chính quyền.
Tuy nhiên, tiềm năng của hệ thống khoa cử không được khai phá hoàn toàn cho đến thời nhà Tống, thời điểm mà tầng lớp sĩ đại phu năng lực gần như chỉ xác lập địa vị xã hội của bản thân thông qua con đường khoa cử mà không phải là dựa vào xuất thân của mình.
Ảnh hưởng chính trị của tôn giáo
[[Đường Huyền Tông triệu kiến Trương Quả Lão, tranh vẽ đời Nguyên]] Ngay từ buổi đầu triều đại, tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị nhà Đường. Trong canh bạc quyền lực của mình, Lý Uyên tuyên bố rằng ông là hậu duệ của Lão Tử, thủy tổ Đạo giáo, qua đó thu hút được một lượng lớn người ủng hộ. Những người muốn ra làm quan thường sẽ sắm sửa lễ vật, nhờ sư thầy làm lễ cúng. Trước khi Pháp nạn Hội Xương dưới thời Đường Vũ Tông () diễn ra, cả Đạo giáo lẫn Phật giáo đều được triều đình bảo hộ và hưởng nhiều chính sách ưu đãi.
Tôn giáo đóng vai trò trung tâm trong triều đại của Đường Huyền Tông (). Hoàng đế đã triệu tập nhiều tăng sĩ và đạo sĩ tới hoàng cung để phục vụ mình. Ông cũng chủ trương xúc tiến Đạo giáo, sắc phong tước vị cho Lão Tử, Trang Tử, lại hạ lệnh các châu đều phải lập miếu thờ Lão tử. Các kinh điển Đạo giáo như Đạo đức kinh, Nam Hoa kinh trở thành các môn thi trong khoa cử. Năm 726, ông cho vời Đại sư người Thiên Trúc là Kim Cương Trí (671–741) thực hiện các nghi thức cầu mưa của Mật tông. Năm 742, Huyền Tông đích thân dâng hương trong lúc Đại sư Bất Không Kim Cương (705–774) lập pháp đàn, niệm trì chú để quân Đường xuất quân giành thắng lợi.
Đường Huyền Tông quản lý chặt chẽ tài chính tôn giáo. Khi mới lên ngôi vào năm 713, ông đã để mắt tới một tự viện Phật giáo lớn ở Trường An, vốn tích lũy được rất nhiều của cải vì có vô số người đến chùa sám hối, để lại vàng bạc châu báu làm lễ vật. Mặc dù tự viện này tuyên bố sử dụng số của cải trên cho việc thiện, song Huyền Tông lại cho rằng chùa có hành vi gian lận tài chính, cho nên đã hạ lệnh tịch thu của cải và phân phát cho các tự viện Phật giáo hoặc đạo quán Đạo giáo khác. Ông cũng dùng số tiền tịch thu được để đúc tượng, xây nhà cửa, cầu cống. Năm 714, ông trao độc quyền bán kinh Phật cho nhà chùa, đồng thời nghiêm cấm các cửa hàng ở Trường An buôn bán kinh sách lậu.
Chính sách quân sự và đối ngoại
Đô hộ phủ và các nước triều cống
Thế kỷ thứ 7 và nửa đầu thế kỷ 8 thường được xem là giai đoạn cực thịnh của triều Đường. Trong giai đoạn này, lãnh thổ nằm trong phạm vi kiểm soát của Trung Quốc vươn xa về phía Tây hơn bất kỳ triều đại nào trước đó, trải dài từ miền Bắc Việt Nam ở phía Nam, đến khu vực miền Bắc Kashmir giáp ranh Ba Tư ở phía Tây, cho tới tận miền Bắc bán đảo Triều Tiên ở phía Đông Bắc.
Các vương quốc xưng thần với nhà Đường bao gồm Kashmir, Nepal, Vu Điền, Quy Từ, Sơ Lặc, Tân La, Lâm Ấp và một số tiểu quốc khác ở thung lũng sông Amu Darya và Syr Darya. Năm 630, sau khi Đông Đột Quyết bị Lý Tĩnh (571–649) và Lý Thế Tích (594–669) đánh bại, các bộ lạc du mục Đột Quyết nhất tề quy phục nhà Đường, tôn hoàng đế nhà Đường là "Thiên khả hãn" (Tengri Khagan). Năm 657, sau khi Tô Định Phương (591–667) dập tắt cuộc nổi loạn của người Tây Đột Quyết, Đường Cao Tông thành lập một số đô hộ phủ để quản hạt các vùng mới chiếm ở Tây Vực, qua đó mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc tới tận Herat tại Tokharistan, tương đương với Afghanistan và Đông Bắc Iran ngày nay. Quan đô hộ sở hữu quyền tự trị tương đối lớn, có thẩm quyền xử lý các vấn đề địa phương mà không cần đợi chỉ thị từ trung ương. Sau loạn An Sử, nhà Đường lập ra nhiều chức tiết độ sứ để quản hạt các địa khu trong nước, gọi là "phiên trấn". Tiết độ sứ được trao quyền lực rất lớn, bao gồm quyền duy trì quân đội riêng, thu thuế và được hưởng thế tập. Đây thường được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền trung ương nhà Đường.
Quân đội
trái|upright=0.6|nhỏ|Tranh vẽ một sĩ quan thuộc lực lượng cấm quân nhà Đường Nhà Đường kế thừa chế độ Phủ binh của nhà Tùy, mà theo đó, tráng đinh nam trong độ tuổi phục dịch (21 đến 60 tuổi) sẽ được cho vào phủ binh. Trong thời gian phục dịch, binh lính được miễn trừ tô thuế, nhưng vẫn phải tự phụ trách khẩu phần lương thực và binh khí. Dưới thời Đường Thái Tông, quân đội toàn quốc do triều đình trực tiếp quản lý, các tướng lĩnh vào thời bình thì phải ở lại triều, chỉ đến khi làm nhiệm vụ mới trực tiếp chỉ huy quân đội. Tuy nhiên, kể từ thế kỷ 8 trở đi, để tiện việc quản lý, triều đình đã đặt ra chức vụ tiết độ sứ quản lý quân đội từng khu vực ở địa phương.
Theo Thông điển, vào thời sơ kỳ nhà Đường, một đội quân viễn chinh thường có tổng cộng 20.000 người, chia thành bảy quân, có 2.600 hoặc 4.000 người. Chỉ có 14.000 người là trực tiếp tham chiến, số còn lại có nhiệm vụ bảo vệ quân nhu. Số binh lính trực tiếp tham chiến bao gồm 2.000 cung thủ, 2.000 nỗ thủ, 4.000 kỵ binh, số còn lại là bộ binh chính quy, trang bị chủ yếu bằng thương. Một đơn vị phủ binh thường được cấu tạo từ ba đến năm đoàn, mỗi đoàn có 200 người, chia thành hai lữ có 100 người, bốn đội có 50 người và hai mươi hỏa có 10 người.
Năm 737, Đường Huyền Tông bãi bỏ chế độ phủ binh, thay thế bằng binh lính phục vụ lâu năm trong quân ngũ, thiện chiến và hiệu quả hơn. Đây có thể xem là một biện pháp cải thiện kinh tế, vì việc đào tạo tân binh và điều họ ra biên ải ba năm một lần là cực kỳ tốn kém. Cuối thế kỷ 7, lính phủ binh bắt đầu bỏ lơ nghĩa vụ quân sự và nhà cửa được ban phát thông qua chế độ quân điền. Tiêu chuẩn 100 mẫu đất cho mỗi hộ trên thực tế đã không còn được bảo đảm ở những nơi dân cư đông đúc. Tại nhiều khu vực, phần lớn ruộng đất đều rơi vào tay tầng lớp địa chủ. Nông dân hoặc người sống lang thang có hoàn cảnh khó khăn sau đó thường được mời tham gia nghĩa vụ quân sự, với quyền lợi được miễn trừ tô thuế và nghĩa vụ lao động. Năm 742, tổng số binh lính tại ngũ của nhà Đường đã lên tới 50 vạn.
Khu vực Đông Bắc
thumb|Bản đồ các cuộc chiến giữa nhà Đường và các quốc gia trên bán đảo Triều Tiên Mặc dù từng là kẻ thù song nhà Đường đã thu nạp nhiều quan lại và tướng lĩnh Cao Câu Ly cũ vào bộ máy quản lý và quân sự, ví dụ như hai anh em Uyên Nam Sinh (634–679) và Uyên Nam Sản (639–701). Nhà Đường thành lập An Đông đô hộ phủ và cai trị miền Bắc bán đảo Triều Tiên từ năm 668 đến năm 676. Năm 671, Tân La chấm dứt liên minh, phát động chiến tranh nhằm đánh đuổi quân Đường khỏi bán đảo Triều Tiên. Cũng trong lúc này, nhà Đường phải đối mặt với các mối đe dọa từ người Thổ Phồn ở biên giới phía Tây nên không thể toàn lực đối phó với mối đe dọa từ Tân La. Đến năm 676, Tân La đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ cũ của Bách Tế và Cao Câu Ly ở phía Nam sông Đại Đồng mà nhà Đường chiếm được trước đó. Sau cuộc nổi dậy của Đông Đột Quyết vào năm 679, nhà Đường từ bỏ hoàn toàn ý định tái chinh phục Triều Tiên.
Năm 698, tại vùng lãnh thổ Cao Câu Ly cũ ở Mãn Châu, một viên tướng Cao Câu Ly là Đại Tộ Vinh () đã lập nên Vương quốc Bột Hải. Dù đã thần phục nhà Đường từ năm 713 song Bột Hải vẫn thường xuyên quấy nhiễu vùng duyên hải và biên cương phía Đông Bắc của nhà Đường. Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ dưới triều Đường Huyền Tông, nhiều con em quý tộc Bột Hải thường được cử sang Trường An học tập. Cũng dưới thời Huyền Tông, nhà nước Tân La Thống nhất đã dần phát triển mối quan hệ mật thiết với nhà Đường. Nhiều lưu học sinh Tân La đã sang nhà Đường học tập, trong đó có những người nổi danh như Thôi Trí Viễn.
thumb|Bích họa tại [[Hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng miêu tả kiến trúc tự viện trên Ngũ Đài sơn, nhà Đường. Kiến trúc Nhật Bản nói chung chịu ảnh hưởng lớn từ kiến trúc nhà Đường]]
Dù giữa hai nước từng xảy ra chiến sự nhưng Nhật Bản vẫn giữ mối quan hệ mật thiết với nhà Đường. Quốc gia này đã có tổng cộng 13 lần phái sứ thần đến nhà Đường, mỗi lần phái đoàn thường có cả trăm người. Họ chỉ dừng cử sứ thần tới nhà Đường vào năm 894 dưới triều Thiên hoàng Uda (). Noi theo pháp chế nhà Đường, Thiên hoàng Kōtoku () thi hành cải cách, áp dụng chế độ trung ương tập quyền. Thiên hoàng Tenmu () học tập chế độ Quân điền, Tô dung điệu, hộ tịch và sổ sách tài chính theo gương nhà Đường. Nhật Bản cũng dựa trên cơ sở tư tưởng Nho gia và Pháp gia cũng như hệ thống luật lệ của nhà Đường để xây dựng nên hệ thống Ritsuryō. Thiên hoàng Tenmu cũng cho xây dựng cung điện ở Fujiwara dựa theo kiến trúc Trung Quốc. Các kinh đô sau này của Nhật Bản như Heian-kyō và Heijō-kyō cũng đều được xây dựng dựa trên mô hình thành Trường An của nhà Đường.
Bên cạnh phái bộ ngoại giao, còn có các lưu học sinh, sư tăng, thầy thuốc, nhạc công, thợ kỹ nghệ Nhật Bản đã vượt biển sang Trung Quốc để học hỏi. Những nhân vật nổi tiếng nhất từng đến Trung Quốc gồm có Kibi no Makibi (695–775), Abe no Nakamaro (701–770), cao tăng Kūkai (774–835) – người sáng lập Chân ngôn tông – và Ennin (794–864). Nhiều cao tăng Trung Quốc cũng đã đặt chân đến Nhật Bản, góp phần truyền bá đức tin Phật giáo tại quốc gia này. Những năm cuối thế kỷ thứ 7, hai cao tăng Trung Quốc đã yết kiến Thiên hoàng Tenji () và tặng cho ông một xe chỉ nam mà họ đã chế tạo. Theo Nhật Bản thư kỷ, phương tiện la bàn sử dụng cơ chế truyền động bánh răng này đã được nghệ nhân Nhật Bản mô phỏng và chế tạo nhiều chiếc vào năm 666 và một lần nữa sau đó vào năm 720.
Khu vực Tây Bắc và Tái Bắc
Hai triều Tùy, Đường thực hiện nhiều chiến dịch quân sự thành công chống lại các bộ lạc du mục. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở phía Bắc và phía Tây giờ đây phải tập trung vào việc đối phó với người Đột Quyết, nhóm dân tộc đang trên đà trở thành thế lực thống trị thảo nguyên Trung Á. Nhằm đối phó và ngăn ngừa các mối đe dọa từ phương Bắc, triều đình nhà Tùy sửa chữa hệ thống thành trì nơi biên ải, tiến hành giao thương và nhận triều cống từ các bộ lạc. Nhà Tùy cũng thực hiện chính sách hòa thân, gả bốn vị công chúa cho các thủ lĩnh Đột Quyết trong các năm 597, 599, 614 và 617. Tuy nhiên, nhằm kìm hãm thế lực Đột Quyết, triều đình nhà Tùy thường dùng kế ly gián kích động các bộ lạc đứng lên chống lại người Đột Quyết. Mặc dù vậy, ngay từ thời nhà Tùy, người Đột Quyết đã trở thành một bộ phận nòng cốt trong quân đội Trung Quốc. Khi người Khiết Đan quấy nhiễu biên giới phía Bắc, một viên tướng nhà Tùy đã suất 20.000 binh sĩ Đột Quyết để chống trả. Sau khi giành thắng lợi, nhà Tùy ban thưởng người Đột Quyết phụ nữ, gia súc của người Khiết Đan làm chiến lợi phẩm. Dưới thời nhà Đường, triều đình đã gả công chúa cho các tướng lĩnh người Đột Quyết trong quân đội. Trong suốt quãng thời gian đến năm 755 đã có khoảng 10 đại tướng gốc Đột Quyết phục vụ trong quân đội nhà Đường. Tuy phần lớn binh lính nhà Đường là lính phủ binh, song binh lính nơi biên ải dưới trướng tướng lĩnh Đột Quyết đều là người ngoại tộc. Một số binh lính người "Đột Quyết" trên thực tế lại gốc Hán, nhưng vì sinh sống với các bộ lạc trong thời gian dài nên những người Hán này đã bị du mục hóa.
Cục diện chiến loạn ở Trung Nguyên gần như chấm dứt hoàn toàn sau năm 626, khi lực lượng của Lương Sư Đô ở Thiểm Tây ngày nay bị nhà Đường tiêu diệt. Sau khi ổn định tình hình trong nước, nhà Đường bắt đầu thực hiện các chiến dịch quân sự nhắm vào người Đột Quyết. Năm 630, quân Đường tiến hành Bắc phạt đánh chiếm khu vực sa mạc Ordos (Nội Mông và miền Nam Mông Cổ ngày nay), buộc Đông Đột Quyết phải hàng phục. Hàng vạn người Đột Quyết được đưa đến Trường An, sau đó được phân bố tới các ki mi phủ ở Hà Đông, Hà Bắc sinh sống. Sau chiến thắng này, các bộ lạc Đột Quyết lần lượt quy phục triều đình nhà Đường, đồng loạt tôn Đường Thái Tông là khả hãn của họ. Ngày 11 tháng 6 năm 631, Đường Thái Tông cử sứ giả mang châu báu và lụa đến yêu cầu người Tiết Diên Đà thả những người Trung Quốc bị bắt về phương Bắc trong giai đoạn chuyển giao từ Tùy sang Đường. Sứ mệnh thành công giúp giải phóng 80.000 đàn ông và phụ nữ Trung Quốc khỏi cảnh nô lệ.
Sau khi an trí số lượng lớn người Đột Quyết ở các châu phía Bắc, triều đình nhà Đường thực hiện chính sách quân sự bành trướng nhằm thống trị thảo nguyên Trung Á. Tương tự triều Hán trước kia, nhà Đường đã phát động các chiến dịch quân sự lớn và thành công chinh phục Trung Á trong hai thập niên 640 và 650. Chỉ riêng dưới thời Đường Thái Tông, nhà Đường không chỉ đối phó với các bộ lạc Đột Quyết, mà còn thực hiện những chiến dịch riêng lẽ khác nhắm vào Tiết Diên Đà, các tiểu quốc ốc đảo như Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Từ và Vu Điền tại Lòng chảo Tarim và cả Thổ Dục Hồn của hệ tộc Mộ Dung ở khu vực Kỳ Liên Sơn. Những thắng lợi quân sự đã khiến cả khu vực Mạc Nam và Mạc Bắc rộng lớn nằm dưới sự thống trị của nhà Đường. Năm 657, dưới thời Đường Cao Tông, tướng Tô Định Phương tiêu diệt Hãn quốc Tây Đột Quyết, lãnh thổ Trung Quốc qua đó mở rộng về phía Tây hơn bất kỳ triều đại tiền nhiệm nào.
Khu vực Tây Nam
upright=1.15|nhỏ|Bức họa Bộ liễn đồ của Diêm Lập Bản miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Gar Tongtsen Yulsung (thứ hai trái sang) tại Trường An]] Sau khi Tán phổ Songtsen Gampo () thống nhất các bộ lạc trên cao nguyên Thanh Tạng, Thổ Phồn dần phát triển thành một thế lực hùng mạnh trong khu vực, trở thành đối thủ cạnh tranh của nhà Đường ở Trung và Nội Á. Để kết thân với Thổ Phồn, Đường Thái Tông đã gả Công chúa Văn Thành (mất 680) cho Songtsen Gampo, mở đầu một giai đoạn hòa bình giữa hai nước. Công chúa Văn Thành có công đưa văn hóa phong vật Trung Hoa truyền nhập vào Thổ Phồn. Thổ Phồn cũng tham khảo lịch nhà Đường để tự xây dựng bộ lịch riêng. Tuy nhiên, sau khi Songtsen Gampo qua đời, chiến sự giữa hai nước bùng nổ. Truyền thuyết truyền khẩu Tây Tạng kể rằng quân đội nhà Đường đã chiếm đánh Lhasa, song sự kiện này không hề được ghi chép trong sử liệu Trung Quốc cũng như thư tịch Tây Tạng ở Đôn Hoàng.
Giữa năm 670 và 692, giữa nhà Đường và Thổ Phồn xảy ra xung đột nhằm tranh giành quyền kiểm soát khu vực Lòng chảo Tarim. Năm 706, do tình hình chiến sự bất lợi, Đường Trung Tông mở Hội thề Thần Long nhằm tái thiết lập mối quan hệ hữu hảo với Thổ Phồn. Ông cũng chấp nhận gả công chúa Kim Thành (mất 739) cho Tán phổ Tridé Tsuktsen (), song không thể xoa dịu mối căng thẳng giữa hai nước. Năm 714, Thổ Phồn yêu cầu nhà Đường hoạch định lại đường ranh giới nhưng bị cự tuyệt khiến chiến sự bùng nổ. Tuy nhiên, Thổ Phồn sau đó đã bị đánh bại và phải chủ động đàm phán hòa ước, mở đầu một thời kỳ hòa bình tương đối dài giữa hai nước.
Sau khi Loạn An Sử bùng nổ, Thổ Phồn đã nhân cơ hội phát động chiến tranh để bành trướng thế lực. Năm 763, quân đội Thổ Phồn thậm chí chiếm được Trường An trong vòng 15 ngày trước khi lui binh. Loạn An Sử khiến quốc lực nhà Đường suy yếu trầm trọng. Trên thực tế, triều đình nhà Đường đã rút hết phiên binh đồn trú ở Hà Tây và Lũng Hữu (Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương ngày nay) để tham gia hỗ trợ bình loạn, tạo điều kiện cho quân đội Thổ Phồn có thể chiếm đóng các vùng đất này một cách dễ dàng. Xung đột giữa hai nước tiếp diễn trong nhiều thập kỷ và chỉ chấm dứt khi Thổ Phồn bị nội loạn làm cho suy yếu và phải cầu hòa. Năm 821, dưới thời Đường Mục Tông, hai nước đã tiến hành Hội thề Trường Khánh, xác định biên giới giữa hai nước. Nội dung hòa ước được ghi lại trong minh văn song ngữ khắc trên một cột đá bên ngoài Chùa Jokhang ở Lhasa.
Sau khi thành lập vào năm 738, Vương quốc Nam Chiếu ở phía Nam dần phát triển thành một mối đe dọa tiềm tàng đối với nhà Đường. Mặc dù hai nước từng có quan hệ hữu hảo, song cũng có những giai đoạn mà mối quan hệ trở nên căng thẳng. Nam Chiếu nhiều lần phối hợp với Thổ Phồn đem quân đánh nhà Đường. Tuy nhiên, sau cuộc xâm lược thất bại năm 779, nguyên khí Nam Chiếu bị tổn hại, mối quan hệ giữa Nam Chiếu và Thổ Phồn cũng trở nên rạn nứt. Năm 794, nhà Đường ký kết hòa ước với Nam Chiếu, thiết lập mối quan hệ hữu hảo tương đối dài giữa hai nước. Tuy nhiên, sau khi nhà Đường suy yếu, Nam Chiếu một lần nữa phát động chiến tranh. Năm 829, Nam Chiếu đánh chiếm Thành Đô trước khi bị đẩy lui. Cục diện lúc chiến lúc hòa với Nam Chiếu tiếp diễn cho đến khi nhà Đường kết thúc vào năm 907.
Khu vực Tây Dương
nhỏ|Phục chế bích họa diễn tả cảnh [[Đường Cao Tông đi săn, bên trái là Võ Tắc Thiên (ngồi ở giữa) đang du ngoạn trên sông nhân dịp Tết Đoan ngọ. Bích họa Afrasiab, Samarkand, Uzbekistan.]] Sau khi Ba Tư bị người Hồi giáo chinh phục (633–656), hoàng tử Đế quốc Sasan là Peroz, con trai của Shahanshah Yazdegerd III, đã cùng thuộc hạ chạy đến Trung Quốc nương nhờ triều đình nhà Đường. Theo Cựu Đường thư, nhà Đường đã phong Peroz làm đô đốc của Ba Tư đô đốc phủ, thiết lập trị sở tại Tật Lăng (Zaranj, Afghanistan ngày nay). Cũng trong thời gian này, Khalip nhà Rashidun là Othman bin Affan () đã cử sứ bộ đến Trường An nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao. Một số thư tịch Ả Rập cho rằng thống đốc Khorasan là Qutayba ibn Muslim (669–715) từng đánh chiếm Kashgar từ nhà Đường và chỉ rút lui khi hai bên ký kết hòa ước, nhưng các học giả hiện đại đã bác bỏ tuyên bố này. Năm 715, quân đội nhà Omeyyad lật đổ vua của thung lũng Fergana và lập một người tên là Alutar lên làm vua. Vị vua bị lật đổ chạy đến Cao Xương thuộc An Tây đô hộ phủ để cầu viện nhà Đường. Triều đình nhà Đường cử Trương Hiếu Tung đem 10.000 quân hộ tống vị cựu vương về Ferghana, thành công đánh đuổi Alutar. Năm 717, quân Đường đánh bại người Ả Rập trong trận Aksu, buộc tướng Al-Yashkuri phải cùng tàn quân tháo chạy về Tashkent. Người Turgesh sau đó nổi dậy đánh đuổi người Ả Rập ra khỏi khu vực.
Sau khi nhà Abbas lật đổ nhà Omeyyad, lực lượng địa phương ở Khorasan bắt đầu tái lập sự hiện diện của người Ả Rập ở thung lũng Ferghana và Sogdiana. Trong trận Talas diễn ra năm 751, quân Đường dưới trướng Cao Tiên Chi bị người Ả Rập đánh bại sau khi lính đánh thuê người Karluk đổi phe. Mặc dù không có ý nghĩa quá lớn về mặt quân sự, song bản thân trận đánh lại là một mảnh ghép quan trọng trong lịch sử, vì trong số những tù binh Trung Quốc có nhiều thợ thủ công lành nghề đã truyền dạy kỹ thuật làm giấy cho người Ả Rập, lần đầu đưa công nghệ này ra khỏi Trung Quốc. Kỹ thuật làm giấy cuối cùng cũng đến được châu Âu vào thế kỷ thứ 12 thông qua đường Tây Ban Nha, vùng đất lúc bấy giờ vẫn nằm dưới sự kiểm soát của người Ả Rập. Mặc dù giữa hai bên vừa xảy ra chiến tranh, song vào ngày 11 tháng 6 năm 758, Khalip Al-Mahdi () đã cử sứ giả mang vàng bạc châu báu đến Trường An bày tỏ hy vọng thiết lập mối quan hệ giao hảo. Nhà Abbas sau đó thậm chí còn cử 20.000 binh lính đến hỗ trợ triều đình nhà Đường trong loạn An Sử.
upright=1.05|trái|thumb|Tranh minh họa phái bộ Đông La Mã yết ki