✨Lý Trung (nhà Đường)

Lý Trung (nhà Đường)

Lý Thư Hùng (chữ Hán: 李忠; 643 - 665), biểu tự Bổn Chính Quân (正本), là Hoàng tử đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, và cũng trở thành người đầu tiên là Hoàng thái tử của Đường Cao Tông.

Tiểu sử

Phong làm Thái tử

Lý Trung là đứa con đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, sinh ra năm Trinh Quán thứ 18 (643), khi Lý Trị còn là Thái tử, mẹ là Lưu thị, chỉ là một thị thiếp thấp hèn.

Khi Lý Trung được sinh ra, tổ phụ Đường Thái Tông mệnh Thái tử Lý Trị mở yến tại Hoằng Giáo điện (弘教殿), Đường Thái Tông cũng đích thân đến tham dự, nhìn chung quanh nhóm cung thần nói:“Gần đây vương nghiệp từ từ chấn hưng, việc chuẩn bị rượu và đồ nhắm chuẩn bị không chu toàn, vẫn là mạo muội mà thỉnh các khanh tới dự tiệc, bởi vì trẫm có tôn nhi, cố thỉnh đại gia cùng nhau chung vui”. Đường Thái Tông khi ngà ngà say, liền đứng dậy khiêu vũ, chú mục quần thần, vì thế quần thần cũng khiêu vũ theo, tẫn ngày mà bãi, phàm là tham gia yến nhạc giả đều có điều ban.

Năm Trinh Quán thứ 20 (646), ngày 5 tháng 8, Lý Trung được Thái Tông sắc phong làm Trần vương (陈王). Năm Trinh Quán thứ 23 (649), Thái Tông băng, Lý Trị kế vị, tức Đường Cao Tông. Năm Vĩnh Huy nguyên niên (650), ngày 7 tháng 1, Trần vương Lý Trung nhậm Châu mục Ung Châu.

Lúc ấy, Hoàng hậu của Đường Cao Tông là Vương hoàng hậu không con, nên cậu của Hoàng hậu là Trung thư lệnh Liễu Thích dâng kế sách, khiến Hoàng hậu nhận Lý Trung làm con mình, do mẹ của Lý Trung là Lưu thị địa vị quá thấp, Vương hoàng hậu tương lai sẽ có chỗ dựa vững chắc hơn, và Lý Trung do có mẹ là Hoàng hậu thì sẽ dễ dàng danh chính ngôn thuận trở thành Thái tử. Bên cạnh đó, Vương Hoàng hậu còn cho người liên lạc với cữu cữu Trưởng Tôn Vô Kỵ, khiến Vô Kỵ cùng các quan lấy lý do Lý Trung là Hoàng trưởng tử, lại do Hoàng hậu đích thân nhận nuôi, có nghĩa là Hoàng đích trưởng tử trên danh nghĩa, dâng sớ lập Hoàng tử Lý Trung làm Hoàng thái tử.

Năm Vĩnh Huy thứ 3 (652), ngày 2 tháng 7, Đường Cao Tông chính thức lập Lý Trung làm Hoàng thái tử. Đại xá thiên hạ.

Bị phế làm Vương

Năm Vĩnh Huy thứ 6 (655), ngày 5 tháng 2, Thái tử Lý Trung cử hành lễ gia quan, tức lễ thành niên. Cùng năm, tháng 10, Đường Cao Tông phế truất Vương hoàng hậu cùng Tiêu Thục phi, lập Võ Chiêu nghi làm Hoàng hậu.

Võ hậu sinh ra, có con trưởng là Hoàng ngũ tử Lý Hoằng, cùng năm đó trở thành Đại vương. Khi Lý Hoằng được 3 tuổi, đại thần Hứa Kính Tông vốn ủng hộ Võ hậu khuyên Đường Cao Tông nên lập Lý Hoằng làm Thái tử, vì Lý Hoằng chân chính là Hoàng đích trưởng tử, thân phận cao quý hơn đương kim Thái tử lý Trung rất nhiều. Đường Cao Tông cuối cùng thuận theo.

Năm Hiển Khánh nguyên niên (656), ngày 6 tháng 1, Thái tử Lý Trung bị phế truất, hàng làm Lương vương (梁王), lập Đại vương Lý Hoằng làm Hoàng thái tử, khi đó mới 4 tuổi. Để an ủi Phế Thái tử, Đường Cao Tông cho Lương vương Lý Trung nhậm Đô đốc, Thứ sử của Lương Châu, sau lại gia phong thực ấp 2.000 hộ, lụa gấm cùng phủ đệ xa hoa, hơn hẳn mức thường, cùng năm lại chuyển làm Thứ sử Phòng Châu.

Bị ban chết

Lý Trung tuổi lớn nhất trong số các con của Đường Cao Tông, do sự hùng mạnh của Võ hậu, ông thường thường hoảng sợ không thể tự an, có khi thậm chí trộm mặc quần áo phụ nữ, phòng bị thích khách. Hơn nữa, Lý Trung thường xuyên làm quái mộng, thường thường chính mình bói toán.

Năm Hiện Khánh thứ 5 (660), ngày 6 tháng 7, nhân sự tình trong tư phủ bị bại lộ, Đường Cao Tông đem Lý Trung phế làm thứ dân, dời đến Kiềm Châu cư trú, cầm tù ở nhà cũ của Phế Thái tử Lý Thừa Càn.

Năm Lân Đức nguyên niên (664), hoạn quan Vương Phục Thắng (王伏胜) đắc tội Võ hậu, nên bị Võ hậu muốn hại chết. Khi đó, Võ hậu biết Vương Phục Thắng cùng Tây Đài thị lang Thượng Quan Nghi từng phụng sự Phế Thái tử Lý Trung, do vậy Võ hậu liên kết với Hứa Kính Tông, vô cáo Vương Phục Thắng, Thượng Quan Nghi cùng Lý Trung âm mưu tạo phản. Cùng năm, ngày 15 tháng 12, Đường Cao Tông đem Lý Trung ban chết ở Kiềm Châu, hưởng niên 22 tuổi, vô hậu tự.

Năm Lân Đức thứ 2 (665), Hoàng thái tử Lý Hoằng thương anh cả, cầu xin thu táng hài cốt của Lý Trung, được đồng ý. Năm Thần Long nguyên niên (705), truy tặng làm Yên vương (燕王), lại gia Thái úy, Đại Đô đốc Dương Châu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Thư Hùng** (chữ Hán: 李忠; 643 - 665), biểu tự Bổn **Chính Quân** (正本), là Hoàng tử đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, và cũng trở thành người đầu tiên là Hoàng
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Lý Tư** (chữ Hán: 李滋, 844–863) là hoàng tử của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, con trai thứ tư của hoàng đế Đường Tuyên Tông, mẹ là Ngô chiêu nghi (吴昭仪).
**Lý Hoàn** (chữ Hán: 李峘, ? – 763), tông thất, quan viên nhà Đường. ## Thân thế Ông cụ là Ngô vương Lý Khác – hoàng tử thứ ba của Đường Thái Tông. Ông nội
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, ? – ?), tông thất nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Hoàng tộc nhà Đường tự nhận có tổ tịch ở Lũng Tây (nay thuộc Cam
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Trương Tuấn** (張濬, ? - 20 tháng 1 năm 904), tên tự **Vũ Xuyên** (禹川), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường Hy
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp** hay** Ủy ban Quản lý vốn nhà nước** là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam; được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm
**Đường Lâm** (chữ Hán: 唐临, 600? – 659?), tên tự là **Bổn Đức**, tịch quán ở Trường An, Kinh Triệu , là quan viên nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王缙, 700 – 781), tự **Hạ Khanh**, người phủ Hà Trung, đạo Hà Đông , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tấn là thành viên
**Trương Lượng** (chữ Hán: 张亮, ? – 646), người Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp: gia nhập Ngõa Cương Lượng
**Trung Quốc** có diện tích 9.571.300 km². Từ Bắc sang Nam có chiều dài là 4000 km, từ Tây sang Đông là 5000 km, có đường biên giới với 14 quốc gia và lãnh thổ bao gồm: Triều
**Lý Hữu** (chữ Hán: 李祐, ? – 22/06/829), tự **Khánh Chi** , không rõ người ở đâu, tướng lãnh trung kỳ nhà Đường, có công tham gia trấn áp các lực lượng quân phiệt Chương
nhỏ|400x400px|Đồ biểu mặt cắt ngang của bồn trũng đại dương, biểu thị các loại đặc trưng địa lí. **Lòng chảo đại dương** hay **Bồn trũng đại dương** (tiếng Anh: _Oceanic basin_) là phần đáy ở
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Ariq Qaya** (chữ Hán: 阿里海牙; 1227-1286) phiên âm Hán - Việt: **A Lý Hải Nha**, còn phiên thành **A Lạt Hải Nha**, **A Lực Hải Nha** hoặc **A Nhĩ Cáp Nhã**, là viên tướng lĩnh
**Cao Ly Trung Tông** (Hangul: 고려 충렬왕, chữ Hán: 高麗 忠烈王; 3 tháng 4 năm 1236 – 30 tháng 7 năm 1308, trị vì 1274 – 1308), tên thật là **Vương Xuân** (왕춘, 王賰), còn
**Lý Kỳ** (chữ Hán: 李頎, 690?-751?). Năm 735 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức Tân Hương úy, nhưng mãi về sau vẫn không được thăng chức.
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Lý An** (chữ Hán: 李安,? – ?), tự **Huyền Đức**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , tướng lãnh nhà Bắc Chu và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Cao Ly Trung Huệ Vương** (Hangul: 고려 충혜왕; chữ Hán: 高麗 忠惠王; 22 tháng 2 năm 1315 – 30 tháng 1 năm 1344, trị vì 2 lần: 1330 – 1332 và 1340 – 1343) là
**Nhà đương cục Đài Loan** () còn gọi là **Nhà chức trách Đài Loan** (台湾有关方面), **Nhà cầm quyền Đài Loan** (台灣方面) gọi tắt là **Đài đương cục** (台当局), nghĩa là **Nhà đương cục Đài Loan,
**Mã Lân** (chữ Hán: 马璘, 721 – 777), tự **Nhân Kiệt**, người Phù Phong, Kỳ Châu , tướng lãnh trung kỳ đời Đường. ## Thân thế Lân sinh ra trong gia đình nhiều đời làm
**Cao Ly Trung Tuyên Vương** (Hangul: 고려 충선왕; chữ Hán: 高麗 忠宣王; 20 tháng 10 năm 1275 – 23 tháng 6 năm 1325, trị vì 2 lần: năm 1298 và 1308 – 1313) là quốc
**Cao Ly Trung Túc Vương** (Hangul: 고려 충숙왕; chữ Hán: 高麗 忠肅王; 30 tháng 7 năm 1294 – 3 tháng 5 năm 1339, trị vì 1313 – 1330 và 1332 – 1339), là vua thứ
**Lưu Phần** (chữ Hán: 刘蕡, ? – ?), tự **Khứ Hoa**, người Xương Bình, U Châu , danh sĩ ở giai đoạn trung kỳ đời Đường. ## Cuộc đời Phần ngụ cư ở khoảng Biện,
**Lý Trung** (李忠) là một nhân vật trong _Thủy Hử_ của Thi Nại Am. Ông là một trong 108 vị anh hùng Lương Sơn, ngoại hiệu Đả Hổ Tướng. Lý Trung là sư phụ đầu
**Lý Thành** (chữ Hán: 李成, ? - ?), tự **Bá Hữu**, người Quy Tín, Hùng Châu, vốn là tướng lãnh cấp thấp nhà Bắc Tống, trở thành trùm giặc cướp ở khoảng Giang - Hoài;
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Trung Sơn Đường** (tiếng Trung: 中山堂; bính âm _Zhōngshān Táng_) là một công trình kiến trúc mang tính lịch sử và từng được dùng làm phòng họp thành phố Đài Bắc (Taihoku). Vào năm 1992,
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Lý Chấn Phiên**, thường được biết đến với nghệ danh **Lý Tiểu Long** (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: _Bruce Lee,_ 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), là một cố võ
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người