✨Vương Tấn (nhà Đường)

Vương Tấn (nhà Đường)

Vương Tấn (chữ Hán: 王缙, 700 – 781), tự Hạ Khanh, người phủ Hà Trung, đạo Hà Đông , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Tấn là thành viên của sĩ tộc họ Vương ở huyện Kỳ, quận Thái Nguyên, nhưng đã ngụ cư nhiều đời ở phủ Hà Trung, trở thành nhánh họ Vương ở Hà Đông. Ông kỵ là Vương Nho Hiền, được làm đến Triệu Châu tư mã. Ông cụ là Vương Tri Tiết, được làm đến Dương Châu tư mã. Ông nội là Vương Trụ, được làm đến Hiệp luật lang. Cha là Vương Xử Liêm, được làm đến Phần Châu tư mã. Anh trai là nhà thơ nổi tiếng Vương Duy.

Khởi nghiệp

Tấn từ nhỏ hiếu học, cùng anh trai Vương Duy sớm nhờ văn tài mà nổi danh. Liên tiếp đỗ cao ở các khoa Thảo trạch và Văn từ thanh lệ, Tấn dần được thăng đến Thị ngự sử, Vũ bộ Viên ngoại lang.

Loạn An Sử nổ ra, Tấn được chọn làm Thái Nguyên thiếu doãn, cùng Lý Quang Bật giữ Thái Nguyên, có công bày mưu, được người ở nhiệm sở cử đứng đầu, gia chức Hiến bộ thị lang, kiêm bản quan.

Sau đó Tấn được vào triều làm Quốc tử tế tửu, đổi làm Phượng Tường doãn, Tần, Lũng Châu phòng ngự sử, trải qua các chức vụ Công bộ thị lang, Tả Tán kỵ thường thị. Tấn soạn Huyền Tông ai sách văn, được người đời khen là hay. Về sau Tấn được đổi làm Binh bộ thị lang. Đến lượt Hà Đông tiết độ sứ Tân Vân Kinh mất, Tấn được kiêm chức Thái Nguyên doãn, Bắc đô lưu thủ, Hà Đông Tiết độ, Doanh điền, Quan sát đẳng sứ; ông xin rời chức Hà Nam phó nguyên soái, Đông đô lưu thủ, triều đình đồng ý. Tướng cũ ở Thái Nguyên là bọn Vương Vô Túng, Trương Phụng Chương cậy công, lại thấy Tấn là nhà Nho nên xem thường, luôn làm trái mệnh lệnh; một sớm Tấn triệu đến mà chém cả đi, khiến tướng lãnh đều run sợ.

Năm sau, Tấn được bãi chức ở Hà Đông để về triều, thụ chức Môn hạ thị lang, Trung thư môn hạ bình chương sự. Bấy giờ Nguyên Tái nắm quyền, Tấn nhún mình xu phụ ông ta, không dám trái ý; nhưng với kẻ khác, Tấn lại cậy tài và lớn tuổi, nhiều lần tỏ ra ngạo mạn. Nếu Nguyên Tái không hài lòng về ai, Tấn đoán ý của ông ta, rồi nhục mạ kẻ ấy, không kiêng dè gì. Bấy giờ Tái rất ghét người Nhung Châu là Kinh Triệu doãn Lê Cán, nhưng không tìm được cớ để đuổi đi. Gặp dịp Cán nói chuyện với Tấn, ông mắng: "Doãn là kẻ ngu dốt ở phương nam, làm sao biết việc triều đình!"

Sùng Phật

Anh em Tấn thờ Phật, ăn chay kiêng thịt, ông về cuối đời lại càng sùng tín. Tấn và Đỗ Hồng Tiệm bỏ tiền xây chùa không giới hạn. Vợ là Lý thị mất, Tấn bỏ nhà riêng (đệ) ở làng (lý) Đạo Chánh làm chùa, để cầu phúc cho bà ta; tâu xin đặt tên chùa là Bảo Ứng, độ 30 tăng nhân đến trụ trì. Các Tiết độ sứ, Quan sát sứ của các đạo vào chầu, Tấn đều lôi kéo họ đến chùa Bảo Ứng, nói mát đòi họ bỏ tiền ra, giúp việc sửa sang. Lý thị ban đầu là vợ của Tả thừa Vi Tể, Tể mất thì bỏ trốn theo Tấn. Tấn yêu quý, nói dối là vợ, thật ra là thiếp.

Ban đầu Đường Đại Tông ưa chùa chiền, nhưng chưa quá sùng Phật, còn Nguyên Tái, Đỗ Hồng Tiệm và Tấn ưa việc mời cơm tăng đồ. Gặp dịp Đại Tông hỏi đến việc phúc nghiệp báo ứng, bọn Tái thừa cơ khải tấu, khiến cho Đại Tông trở nên sùng tín quá đáng, thường lệnh hàng trăm tăng nhân ở trong cung bày tượng Phật, đọc kinh khấn niệm, gọi là Nội đạo tràng, kéo dài cả trăm ngày. Các tăng nhân này ăn uống những món ngon vật lạ, ra vào hoàng cung bằng ngựa – xe công, đều do bộ Hộ sắp xếp cung cấp. Mỗi khi người Tây Phiên xâm phạm, hoàng đế tập hợp quần tăng tụng kinh Hộ Quốc Nhân vương kinh, nhằm bài trừ tai vạ; nếu may mắn mà kẻ địch rút lui, ắt ban thưởng càng nhiều, không biết đến giới hạn. Hồ tăng Bất Không, được nhận quan chức đến Khanh – Giám, phong tước Quốc công, tự do ra vào cung cấm, thế lực chèn ép công khanh, tranh quyền chiếm oai, giành giật lẫn nhau. Phàm là ruộng đất phì nhiêu ở kinh kỳ đều thuộc về nhà chùa, quan lại không thể ngăn cản. Bè đảng của tăng nhân là bọn trộm cắp, cướp bóc, nối nhau đền tội, nhưng lòng tin của Đại Tông chẳng đổi, còn giáng chiếu đòi quan lại cả nước không được đánh đập làm nhục tăng ni. Đại Tông lại đồng ý cho bọn Tấn dốc tiền dựng chùa, vô cùng lộng lẫy, như Kim Các tự ở Ngũ Đài sơn, đúc đồng làm ngói, trát vàng lên trên, chiếu rọi sơn cốc, chi phí tính ra đến hàng ức vạn tiền.

Bọn Tấn thường khuyên can hoàng đế, đều lấy nghiệp quả làm chứng; Tấn dâng lời rằng: "Khánh tộ nước nhà lâu dài, đều là phúc báo làm vốn, nghiệp lực đã định, dẫu có lúc gặp hoạn nạn, cũng không đáng kể. Vì thế An Lộc Sơn, Sử Tư Minh gây loạn đang hăng, thì gặp vạ con cái; Bộc Cố Hoài Ân sắp nổi loạn thì chết, Tây Nhung phạm khuyết, chưa đánh đã lui. Đây đều là bằng chứng cho việc không phải con người làm ra." Khiến Đường Đại Tông càng sùng tín. Quần thần cũng theo trào lưu ấy, nói rằng đã có sanh tử báo ứng, vì thể việc của người cứ bỏ mặc không cần lo lắng, khiến cho luật pháp – chánh trị thời Đại Lịch ngày càng trở nên trì trệ.

Vào ngày rằm tháng 7 ÂL, Đường Đại Tông ở Nội đạo tràng xây Vu Lan Bồn, khảm đính vàng ngọc, hao phí hàng trăm vạn tiền; còn sắp bài vị của 7 hoàng đế từ Đường Cao Tổ trở đi, bày phiên tiết (cờ hiệu), long tán (lọng rồng), y quan (áo mũ) theo định chế, bên trên cờ hiệu đều ghi rõ tôn hiệu để nhận biết, khiêng ra nội thành, đặt ở nhà chùa. Ngày hôm ấy, Đại Tông bày nghi trượng, bá quan tự xếp hàng ở cửa Quang Thuận để đón, rải hoa cổ vũ, hoan hô đưa rước. Nghi thức này trở thành thông lệ hằng năm, người hiểu biết cười họ làm trái lẽ, cho rằng việc gây tổn hại lễ giáo này bắt đầu từ Tấn vậy!

Tấn làm tể tướng, cấp Phù điệp của Trung thư tỉnh, lệnh cho vài mươi tăng nhân ở Ngũ Đài sơn chia nhau đi đến quận, huyện, tập hợp tín đồ để giảng thuyết, nhằm xin tiền của. Tấn có tính tham lam, buông thả cho em gái nữ ni và đồng bọn thu nhận hối lộ; bọn chúng thô bỉ và hèn hạ đến mức tranh cãi như đang ở chốn chợ búa.

Thất thế

Nguyên Tái chịu tội chết, bọn Lưu Yến cũng luận tội Tấn đáng chết. Đường Đại Tông thương xót Tấn đã già, không phán tội chết, mà biếm làm Quát Châu thứ sử, sau đó dời làm Xử Châu thứ sử.

Năm Đại Lịch thứ 14 (779), Tấn được trừ chức Thái tử tân khách, Lưu tư Đông đô (tức là được ở lại Đông đô Lạc Dương). Tháng 12 ÂL năm Kiến Trung thứ 2 (781), Tấn mất, hưởng thọ 82 tuổi.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王缙, 700 – 781), tự **Hạ Khanh**, người phủ Hà Trung, đạo Hà Đông , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tấn là thành viên
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王晙; ?-732), là tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công đẩy lui quân Thổ Phiên xâm lấn biên giới phía tây nhà Đường. ## Thân thế Vương
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王琎, ? - ?) tự Khí Chi, người huyện Nhật Chiếu, phủ Thanh Châu, hành tỉnh Sơn Đông , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Tấn làu thông kinh sử,
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội** là một công trình nổi tiếng của Giáo hội Công giáo Rôma ở thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ. Công trình
**Trương Tuấn** (張濬, ? - 20 tháng 1 năm 904), tên tự **Vũ Xuyên** (禹川), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường Hy
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
Nhà thờ San Marco **Vương cung thánh đường chính tòa thượng phụ Thánh Máccô** (tiếng Ý: _Basilica Cattedrale Patriarcale di San Marco_) tại Venezia, Ý, là bảo vật quốc gia của Cộng hòa Venezia cho
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, **Phú Nhai** (hay còn gọi là **Nhà thờ Phú Nhai** hoặc **Đền Thánh Phú Nhai**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Giáo phận
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Đường Lâm** (chữ Hán: 唐临, 600? – 659?), tên tự là **Bổn Đức**, tịch quán ở Trường An, Kinh Triệu , là quan viên nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Đường Văn Tông Dương Hiền phi** (chữ Hán: 唐文宗楊賢妃, ? - 12 tháng 12 năm 840), là phi tần của Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc. Dương Hiền phi có ảnh hưởng lớn
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang** (tên khác: **Nhà thờ La Vang**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Tổng giáo phận Huế, tọa lạc ở xã Hải Lăng, Quảng Trị, Việt
**Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô thành Assisi** (tiếng Ý: _Basilica Papale di San Francesco_, Latinh: _Basilica Sancti Francisci Assisiensis_) là nhà thờ mẹ của Dòng Anh Em Hèn Mọn thuộc Giáo hội Công giáo
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Vương cung thánh đường Sở Kiện** (_Duomo di Sở Kiện_, còn được gọi là **Nhà thờ Kẻ Sở**) là một nhà thờ Công giáo Rôma tọa lạc ở phường Châu Sơn, tỉnh Ninh Bình, thuộc
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Vương Tài nhân** (chữ Hán: 王才人, ? - 846), còn được gọi là **Vũ Tông Vương Hiền phi** (武宗王賢妃), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Vũ Tông Lý Viêm trong lịch
Nhà thờ Sacré-Cœur Paris **Vương cung thánh đường Sacré-Cœur** (tiếng Pháp: _Basilique du Sacré-Cœur_, còn gọi là _Nhà thờ Thánh Tâm_) là một nhà thờ Công giáo nổi tiếng của Paris. Nằm trên đỉnh đồi
**Vương cung thánh đường Nhà thờ ngoại hiệu Thánh Gia** (; ), thường được gọi **Sagrada Família**, là một nhà thờ Công giáo lớn đang xây tại Barcelona, Catalunya, Tây Ban Nha, được coi là
**Vương cung thánh đường Thánh Tôma** là một nhà thờ Công giáo Rôma tại vùng Santhome, Mylapore thuộc thành phố Chennai (tên cũ: Madras), thủ phủ tiểu bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Nhà thờ được
**Trương Lượng** (chữ Hán: 张亮, ? – 646), người Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp: gia nhập Ngõa Cương Lượng
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Lý Khác** (chữ Hán: 李恪; 619 - 10 tháng 3, 653), thông gọi **Ngô vương Khác** (吴王恪), biểu tự **Khư** (厶), là một thân vương và tướng lĩnh thời nhà Đường. Ông là hoàng tử
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Lý Viện** (chữ Hán: 李瑗, 586 – 626), tự **Đức Khuê**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , hoàng thân nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông cụ là Thái
**_Vương quốc thiên đường _**(tên gốc: **_Kingdom of Heaven_**) là một bộ phim sử thi sản xuất năm 2005, được đạo diễn và sản xuất bởi Ridley Scott và kịch bản được viết bởi William
**Sào Lạt vương phi Dương thị** (chữ Hán: 巢剌王妃楊氏), không rõ tên, nguyên từng là Vương phi của Tề vương, cải Sào Lạt vương Lý Nguyên Cát, rồi trở thành một Thứ phi không chính
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Vương Cảnh Sùng** (chữ Hán: 王景崇, bính âm: Wang Jingchong, 847 - 883), thụy hiệu **Thường Sơn Trung Mục vương** (常山忠穆王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới triều đại nhà Đường trong lịch sử
**Vương Sĩ Chân** (chữ Hán: 王士真, bính âm: Wang Shizhen, 759 - 809), thụy hiệu **Thanh Hà Cảnh Tương vương** (清河景襄王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung
**Nguyên Hiến Dương hoàng hậu** (chữ Hán: 元獻楊皇后; 699 - 729), cũng thường gọi **Dương Quý tần** (楊貴嬪), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ và là sinh mẫu của Đường
**Đường Ý Tông Quách Thục phi** (chữ Hán: 唐懿宗郭淑妃; _không rõ năm sinh năm mất_) là một phi tần rất được sủng ái của Đường Ý Tông Lý Thôi trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Lý Thư Hùng** (chữ Hán: 李忠; 643 - 665), biểu tự Bổn **Chính Quân** (正本), là Hoàng tử đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, và cũng trở thành người đầu tiên là Hoàng
phải|Vị trí đất Thương Ngô trên bản đồ nước Nam Việt **Triệu Quang** (chữ Hán: 趙光) là hoàng thân quốc thích của các vua Triệu nước Nam Việt, được phong tước **Thương Ngô Vương** (蒼梧王),
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Dương Chân Nhất** (chữ Hán: 杨真一; 692 - 749), còn gọi **Dương Thục phi** (杨淑妃) hay **Dương tôn sư** (杨尊师), biểu tự **Chân Nhất**, là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ
**Duệ Chân Thẩm Hoàng hậu** (chữ Hán: 睿真沈皇后; _không rõ năm sinh năm mất_), là thiếp của Đường Đại Tông khi còn là Quảng Bình vương, đồng thời là sinh mẫu của Đường Đức Tông
**Lưu Phần** (chữ Hán: 刘蕡, ? – ?), tự **Khứ Hoa**, người Xương Bình, U Châu , danh sĩ ở giai đoạn trung kỳ đời Đường. ## Cuộc đời Phần ngụ cư ở khoảng Biện,