Mã Lân (chữ Hán: 马璘, 721 – 777), tự Nhân Kiệt, người Phù Phong, Kỳ Châu , tướng lãnh trung kỳ đời Đường.
Thân thế
Lân sinh ra trong gia đình nhiều đời làm quan. Ông nội là tổ phụ Mã Chánh Hội, được làm đến Hữu Uy vệ tướng quân. Cha là Mã Thạnh, được làm đến Tả Tư ngự soái phủ Binh tào tham quân.
Tòng quân An Tây
Lân sớm mồ côi cha, lêu lổng không lo học hành, làm ăn gì cả. Ngoài 20 tuổi, Lân đọc Mã Viện truyện, đến câu “đại trượng phu nên chết ở biên dã, lấy da ngựa bọc thây mà về”, thì cảm khái than rằng: “Há đem huân nghiệp của tổ tiên mình ném đi ru!” Cuối niên hiệu Khai Nguyên (713 – 741) thời Đường Huyền Tông, Lân tòng quân, tự hiệu ở An Tây; lập nhiều công lao, dần thăng đến Tả Kim ngô vệ tướng quân Đồng chánh.
Nổi danh thời loạn
Loạn An Sử nổ ra, năm Chí Đức đầu tiên (756), Lân thống lãnh 3000 giáp sĩ, từ Nhị Đình chạy đến Phượng Tường, Đường Túc Tông lấy làm lạ, cho ông tham gia đông thảo. Lân tham gia diệt nghĩa quân ở giao giới đất Thiểm, phá địch ở Hà Dương, đều lập được công lớn. Lân theo Phó nguyên soái Lý Quang Bật đánh phản quân ở Lạc Dương, Sử Triều Nghĩa tự lĩnh tinh binh, chống lại quan quân ở Bắc Mang, doanh lũy như núi, khải giáp sáng choang, chư tướng kinh sợ không dám động. Lân một mình soái bản bộ, cầm ngang mác mà xông vào trận địch, tấn công mấy hiệp, kẻ địch tránh né tan chạy. Lý Quang Bật khâm phục, nói: “Tôi dùng binh 30 năm, chưa thấy lấy ít đánh nhiều, giành được thắng lợi như Mã tướng quân.” Sau đó Lân được thăng làm Thí (thử) Thái Thường khanh.
Năm sau, quân Thổ Phiên xâm phạm, Lân nhận chiếu đi cứu viện Hà Tây. Năm Quảng Đức đầu tiên (763) thời Đường Đại Tông, Bộc Cố Hoài Ân bất mãn, dụ quân Thổ Phiên vào cướp bóc, Đại Tông chạy ra Thiểm Châu. Lân ngay hôm ấy từ Hà Hữu quay về, muốn chặn đường lui của quân Phiên, đến Phượng Tường thì gặp địch đang vây thành. Bấy giờ Phượng Tường tiết độ sứ Tôn Chí Trực đóng chặt cửa cố thủ, Lân hăng hái đột phá vòng vây, chạy vào cửa treo; sau đó ông không cởi giáp mà xông ra ngoài, tựa lưng vào thành quyết chiến, khiến quân Phiên tan chạy. Lân đem kỵ binh mạnh truy kích, chém được hàng ngàn kẻ địch, máu chảu đỏ ngòi, do vậy tiếng tăm càng nổi. Đại Tông về cung, triệu kiến úy lạo Lân, cho ông thụ kiêm Ngự sử trung thừa.
Trở lại An Tây
Năm Vĩnh Thái đầu tiên (765), Lân được bái làm Tứ trấn Hành doanh tiết độ, kiêm Nam đạo Hòa Phiên sứ, giao cho Cấm lữ, khiến ông quét sạch tàn dư phản quân. Ngay sau đó, Lân được thăng làm Tứ trấn, Bắc Đình hành doanh tiết độ cùng Bân Ninh tiết độ sứ, kiêm Ngự sử đại phu, trở về được gia Kiểm hiệu Công bộ thượng thư. Ngày đầu năm, có tên lính phạm tội cướp, người ta xin tha, Lân nói: “Tha cho hắn, ắt kẻ khác sẽ lựa ngày đầu năm mà làm cướp.” Rồi giết đi. Gặp dịp đại hạn, dân chúng đắp rồng đất cầu mưa, Lân nói: “Hạn hán là do chánh sự không sửa sang.” Lập tức mệnh cho dẹp đi. Hôm sau có mưa, năm ấy được mùa.
Phòng ngự Thổ Phiên
Ít lâu sau, triều đình cho rằng Thổ Phiên ngày càng càn rỡ, hằng năm xâm phạm biên thùy, Kính Châu gần Thổ Phiên nhất, bèn giáng chiếu lấy Lân dời làm Trấn Kính Châu, kiêm quyền Tri Phượng Tường, Lũng Hữu tiết độ phó sứ, Kính Nguyên tiết độ, Kính Châu thứ sử, Tứ trấn, Bắc Đình hành doanh tiết độ sứ như cũ; sau đó lại lấy 2 châu Trịnh, Hoạt lệ thuộc ông.
Lân nói năng khẳng khái, nhận rằng phá giặc là trách nhiệm của mình; sau khi đến Kính Châu, chia ra xây dựng doanh – bảo, hoàn thiện công cụ phòng ngự, nhiều phá được Thổ Phiên, đem tù binh, tai trái (phu quắc) về hiến lên, trước sau phá được hơn 3 vạn địch. Lân nhờ công được gia Kiểm hiệu Hữu bộc xạ.
Cầu chức tể tướng
Năm Đại Lịch thứ 9 (774), Lân vào triều, muốn cầu chức tể tướng. Đại Tông tỏ ý xem trọng ông, thăng làm Kiểm hiệu tả bộc xạ Tri tỉnh sự; giáng chiếu cho các tể tướng cùng bá quan đưa tiễn, còn tiến phong tước Phù Phong quận vương.
Hậu sự
Năm thứ 12 (777), Lân mất ở trong quân, hưởng thọ 56 tuổi. Đại Tông thương tiếc, bỏ buổi chầu sớm, truy tặng chức Tư đồ, đặt thụy là Vũ.
Lân làm tướng vùng biên nhiều năm, gặp lúc Thổ Phiên quấy nhiễu, nên được nước nhà xem là Bình hàn ; vì thế được triều đình trước sau thưởng không tính toán, nhiều không đếm xuể. Tuy nhiên con em của Lân không nên người, gia tài to lớn cũng dần tiêu tan.
Dật sự
Cuối thời Huyền Tông, gia đình công thần, quý tộc trở nên rất xa hoa, vì thế triều đình đối với kiến trúc của các phủ đệ vẫn duy trì sự hạn chế, công trình nào vượt quá quy định đều bị sung công. Ngay cả gia miếu của Vệ công Lý Tĩnh cũng trở thành chuồng ngựa của Dương quý phi. Sau loạn An Sử, pháp luật suy đồi, hoạn quan và tướng lĩnh tranh nhau thể hiện xa hoa, người đương thời gọi là những tòa kiến trúc của họ là Mộc yêu (yêu nghĩa là đẹp). Phủ đệ của Lân có một sảnh đường chính (trung đường) mới dựng, hao phí 20 vạn quan tiền, gặp lúc Lân mất ở trong quân, con em đưa tang về kinh sư, quan dân muốn xem sảnh đường, tranh nhau đi phúng điếu, có kẻ còn vờ xưng là lại cũ của Lân, mỗi ngày có đến vài trăm người. Thái tử Lý Quát nghe được việc này, sau khi lên ngôi, là Đường Đức Tông, hạ lệnh điều tra, không cho phép vượt quá quy định. Vì thế triều đình giáng chiếu phá hủy sảnh đường ấy của Lân (còn có phủ đệ của hoạn quan Lưu Trung Dực), sung công khu vườn của ông. Về sau mở tiệc khoản đãi công khanh, Đức Tông đều tổ chức ở khu vườn ấy.
Nhà thơ thời Vãn Đường là Hứa Hồn (许浑) sáng tác bài Kinh Mã Trấn Tây trạch (经马镇西宅).
Đánh giá
Sử cũ nhận xét: Lân sanh ra trong gia đình sĩ tộc, dẫu từ nhỏ không chịu học hành, nhưng có lòng trung thành và tài vũ dũng, trong gian nan thể hiện tiết tháo, là viên mãnh tướng thời Trung Đường. Lân ở Kính Châu cai trị khoan dung nhưng nghiêm ngặt, mọi người đều vui lòng nghe lệnh; trấn thủ vùng biên chừng 8 năm, dẫu không mở rộng được bờ cõi, nhưng thành bảo được an toàn, kẻ địch không dám xâm phạm.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mã Lân** (chữ Hán: 马璘, 721 – 777), tự **Nhân Kiệt**, người Phù Phong, Kỳ Châu , tướng lãnh trung kỳ đời Đường. ## Thân thế Lân sinh ra trong gia đình nhiều đời làm
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王缙, 700 – 781), tự **Hạ Khanh**, người phủ Hà Trung, đạo Hà Đông , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tấn là thành viên
**_Bóng ma trong nhà hát_** () là một vở nhạc kịch do Andrew Lloyd Webber soạn nhạc, Charles Hart viết lời, Lloyd Webber và Richard Stilgoe đồng viết kịch bản. Dựa trên cuốn tiểu thuyết
**Đường Lâm** (chữ Hán: 唐临, 600? – 659?), tên tự là **Bổn Đức**, tịch quán ở Trường An, Kinh Triệu , là quan viên nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Trương Lượng** (chữ Hán: 张亮, ? – 646), người Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp: gia nhập Ngõa Cương Lượng
**Lý Hữu** (chữ Hán: 李祐, ? – 22/06/829), tự **Khánh Chi** , không rõ người ở đâu, tướng lãnh trung kỳ nhà Đường, có công tham gia trấn áp các lực lượng quân phiệt Chương
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Lý Thư Hùng** (chữ Hán: 李忠; 643 - 665), biểu tự Bổn **Chính Quân** (正本), là Hoàng tử đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, và cũng trở thành người đầu tiên là Hoàng
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3** phản ánh bộ máy cai trị tại Việt Nam của hai triều đại phương Bắc là nhà Tùy và nhà Đường từ năm 602 đến năm
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
**Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất** nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Palais Garnier** ( tiếng Pháp) ("Cung điện Ganier") là một nhà hát opera với 1.979 chỗ ngồi, được xây dựng từ năm 1861 đến năm 1875 cho đoàn Opera Paris. Ban đầu, nhà hát được
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Dương Hành Mật** (, 852 – 24 tháng 12 năm 905), nguyên danh **Dương Hành Mẫn** (楊行愍, đổi tên năm 886), tên tự **Hóa Nguyên** (化源) là người giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ
**Trận Tuy Dương** (chữ Hán: 睢陽之戰 _Tuy Dương chi chiến_) là cuộc chiến giữa nhà Đường và chính quyền Đại Yên, là một phần của loạn An Sử giữa thế kỷ 8 trong lịch sử
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Mã Long** (chữ Hán: 马隆, ? - ?), tên tự là **Hiếu Hưng**, người huyện Bình Lục, quận Đông Bình, là tướng lĩnh đầu đời Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp
Suốt thời kỳ **Bắc thuộc lần 3** trong lịch sử Việt Nam, **hàng loạt cuộc khởi nghĩa** của cư dân Giao Châu đã nổ ra để chống lại sự cai trị của các triều đại
**Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời** (, )) còn gọi theo cách đơn giản là **Nhà thờ Kielce** là một nhà thờ Công giáo La Mã có vị thế của nhà
**Dương Tư Húc** (chữ Hán: 楊思勗, 654 – 740) là hoạn quan và tướng lĩnh thời Đường. ## Tiểu sử ### Thân thế và binh nghiệp Dương Tư Húc quê ở Thạch Thành, La Châu,
VT CICA TONE-UP MASK Mặt nạ Dưỡng Trắng, Nâng Tone Da - Chiết xuất hoa sen có trong mặt nạ giúp giảm vết thâm, dưỡng da trắng sáng, giúp nâng tone da tự nhiên,đem lại
**Mã Ân** () (853, Tằng tổ phụ của ông tên là Mã Quân (馬筠), tổ phụ của ông tên là Mã Chính (馬正), còn cha của ông tên là Mã Nguyên Phong (馬元豐). Gia đình
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường