✨Lý Cảnh (Nam Đường)
Lý Cảnh (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh Từ Cảnh Thông (徐景通), còn gọi là Từ Cảnh (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là Bá Ngọc (伯玉), miếu hiệu Nguyên Tông (元宗), là quốc quân thứ hai (đôi khi còn gọi là Trung Chủ (中主)) của Nam Đường, một quốc gia tồn tại dưới thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 943 cho đến khi mất.
Những năm đầu cai trị, ông khuếch trương thế lực, mở rộng đáng kể lãnh thổ Nam Đường bằng các cuộc tấn công vào các tiểu quốc xung quanh: Mân năm 945 và Sở năm 951. Tuy nhiên, chiến tranh cũng làm hao tổn nguyên khí quốc gia, dẫn đến việc thất bại nặng nề trước quân đội Hậu Chu năm 956. Ông buộc phải cắt đất các châu phía bắc Trường Giang cho Hậu Chu, từ bỏ đế hiệu, xưng thần triều cống hoàng đế Bắc Triều (Hậu Chu và sau đó là Bắc Tống) vào năm 958.
Xuất thân
Lý Cảnh, nguyên danh Từ Cảnh Thông, chào đời năm 916. của nước Ngô, dưới trướng của nghĩa phụ ông ta (nghĩa tổ phụ của Từ Cảnh Thông) Từ Ôn, đang nắm thực quyền nước Ngô. Ông là con trai trưởng của Từ Tri Cáo. Mẫu thân ông là vợ thứ hai của Từ Tri Cáo, Tống Phước Kim, bà còn sinh hạ được ba người con khác, Lý Cảnh Thiên, Lý Cảnh Toại, và Lý Cảnh Đạt.
Thời Ngô
Năm 923, lúc Từ Tri Cáo đang đại diện cho Từ Ôn làm nhiếp chính, một việc lớn xảy ra khi tướng Chung Thái Chương, một tướng từng ủng hộ Từ Ôn lên nắm quyền, bị kết tội ăn hối lộ. Từ Tri Cáo muốn trừng phạt Chung Thái Chương thật nặng, nhưng Từ Ôn vì nghĩ đến công lao của Thái Chương đối với mình, nên không trách phạt, và còn đề nghị Từ Tri Cáo chọn con gái của Thái Chương làm vợ của Từ Cảnh Thông, mặc dù không rõ là hôn sự diễn ra ngay vào lúc đó hay mấy năm sau. Năm 925, Từ Cảnh Thông, năm đó lên 9 tuổi, được phong chức Giá bộ lang trung (駕部郎中), một chức quan giám sát tại Binh bộ. Sau đó ông còn được bổ dụng vào đội quân túc vệ. đến căn cứ của mình là Kim Lăng (trước kia là Thăng châu), và để Từ Cảnh Thông ở lại Giang Đô cai quản chính sự, phong cho ông làm Thượng thư bộ Binh (兵部尚書) nắm quyền tể tướng (參政事, Tham chánh sự). Năm 931, khi quân sư của Từ Tri Cáo là Tống Tề Khâu bất ngờ xin trí sĩ, Từ Tri Cáo gửi Từ Cảnh Thông đến phủ đệ của Tống Tề Khâu xin ông ta trở lại triều đình. Cuối năm đó, Từ Tri Cáo rời Giang Đô và tiến đến Kim Lăng, để Từ Cảnh Thông ở Giang Đô nhiếp chánh, có Tống Tề Khâu và Vương Lệnh Mưu phụ tá. Từ Cảnh Thông được phong làm Tư đồ (司徒, một trong Tam công), tể tướng (同中書門下平章事, Đồng Trung thư Môn hạ bình chương sự), thống lĩnh quân đội (知中外左右諸軍事, Tri trung ngoại tả hữu chư quân sự).
Cuối năm 934, Từ Tri Cáo triệu Từ Cảnh Thông từ Giang Đô về Kim Lăng phụ tá ông ta, phong Từ Cảnh Thông làm Tiết độ sứ Trấn Hải và Ninh Quốc, Chư đạo phó đô thống (諸道副都統), Phán trung ngoại chư quân sự (判中外諸軍事). Em trai ông Từ Cảnh Thiên được bổ nhiệm làm nhiếp chính ở Giang Đô.
Cuối năm 935, để chuẩn bị soán ngôi, Từ Tri Cáo ép Ngô đế Dương Phổ phong mình làm Tề vương, Đại Nguyên súy (大元帥). Năm 937, Từ Tri Cáo phong Từ Cảnh Thông làm Vương thái tử nước Tề, nhưng Từ Cảnh Thông từ chối không nhận.
Thời phụ hoàng Lý Biện
Mùa đông 937, Từ Tri Cáo ép Dương Phổ nhường ngôi cho mình, kết thúc triều Ngô, lập ra triều Tề. Trong khoảng thời gian đó, Từ Cảnh Thông được phong làm Chư đạo đô thống, tức là tổng chỉ huy các trấn toàn quốc, không lâu sau được lập làm Thái úy, Thượng thư lệnh, phong hiệu Ngô vương. Tên của ông cũng được đổi từ Cảnh Thông thành Cảnh. Năm 938, ông được cải phong làm Tề vương.. Đổi quốc hiệu từ Tề thành Nam Đường.
Tuy nhiên trong mấy năm này, Tống Tề Khâu thường tán tụng em trai Lý Cảnh là Lý Cảnh Đạt, và Lý Biện cũng đánh giá rất cao và từng muốn lập làm người kế vị. Tuy nhiên, vì Lý Cảnh đã trưởng thành, nên ngôi thái tử của ông được ổn định. Vì lý do này mà Lý Cảnh rất bực bội với Tề Khâu. Một lần Lý Biện đến nhà của Lý Cảnh, nhìn thấy ông cùng gia nhân đàn ca hát xướng — thứ mà Lý Biện coi là phù phiếm, do đó suốt mấy ngày liền Lý Cảnh bị trách phạt. Người thiếp yêu của Lý Biện là Chủng thị, sinh được ấu tử Lý Cảnh Thích, nhân cơ hội thuyết phục Lý Biện phế Lý Cảnh mà lập Lý Cảnh Thích làm thái tử — tuy nhiên Lý Biện giận mắng rằng, "Con của ta phạm lỗi, thì ta trách phạt hắn là chuyện thiên kinh địa nghĩa. Nhà ngươi là đàn bà, sao dám dự vào việc nước?" Bèn đuổi Chủng thị đi và cho phép tái giá. Trong khi đó, các quan dưới quyền Lý Cảnh là Trần Giác và Phùng Diên Tị có quan hệ thân thiết với Tống Tề Khâu và tìm cách tống cổ những người không ăn cánh ra khỏi triều. Cả Thường Mộng Tích và Tiêu Nghiễm tố cáo với Lý Biện việc Trần Giác lạm dụng quyền lực, và sử sách cho rằng Lý Biện coi những tố cáo này là đúng, tuy nhiên khi ông chưa có hành động gì thì bất giờ ngã bệnh vào mùa xuân năm 943 do lạm dụng đan dược mong muốn trường sinh.
Cuối năm 944, Tra Văn Huy lập kế hoạch tấn công thủ phủ của Ân là Kiến châu , và mặc dù gặp phải nhiều phản đối, Lý Cảnh cử Văn Huy chỉ huy quân đội tiến đánh nước Ân. Văn Huy tiến quân đến Tín châu , gần lãnh thổ Ân, ông ta viết biểu trình bày rằng cuộc chinh phạt sẽ được thành công. Lý Cảnh sau đó cử Biên Hạo đến hỗ trợ Văn Huy. Tuy nhiên, chiến dịch diễn ra không được thuận lợi. Tướng nước Ân là Ngô Thành Nghĩa, người đang tấn công thủ phủ nước Mân là Trường Lạc , quyết định nhân cơ hội đó nói dối với dân Mân rằng quân Nam Đường đến đỡ giúp Ân tấn công Chu Văn Tiến, khiến cả thành Trường Lạc náo động. Tướng Mân là Lâm Nhân Hàn cũng nhân đó nổi dậy chống lại chủ tướng, giết Chu Văn Tiến và Liên Trọng Ngộ, mở cửa thành đón Ngô Thành Nghĩa tiến vô. Không lâu sau đó, Vương Diên Chính xưng là hoàng đế Đại Mân, nhưng vẫn đóng đô ở Kiến châu thay vì dời đến Trường Lạc. Tướng Nam Đường Tổ Toàn Ân được Lý Cảnh gửi đến giúp đỡ Văn Huy, dẫn quân đánh bại quân Mân do thừa tướng nước Mân Dương Tư Cung chỉ huy, rồi kéo đến bao vây Kiến châu..
Ban đầu cả nước Mân, sau khi Kiến châu thất thủ thì quy phục Nam Đường, bao gồm Phúc châu (tức là Trường Lạc),, Trần Giác hối hận, và nhân danh Lý Cảnh lệnh Lý Hoằng Nghĩa vào triều, rồi tự mình xưng là giám quân Phúc châu. Lý Hoằng Nghĩa chống lại, chiến tranh nổ ra. Lý Cảnh thấy Trần Giác tự ý hành động mà không được ý chỉ mình, nhưng do các quan thuyết phục, ông đồng ý cử binh hỗ trợ Trần Giác. Các tướng Nam Đường lập vòng vây Phúc châu, khởi đầu khá thuận lợi. Tuy nhiên, khi Vương Sùng Văn làm Nguyên soái song Trần Giác, Phùng Diên Lỗ và Ngụy Sầm đều tự ý hành động, còn Lưu Tòng Hiệu và Vương Kiến Phong không phục không tuân mệnh, họ tranh công với nhau, tiến thoái không tương ứng. và đuổi được quân Nam Đường — do đó, mặc dù vẫn xưng thần với Nam Đường, nhưng miền nam Phúc Kiến ngày nay đều do Lưu Tòng Hiệu cai quản. (Do đó, những phần lãnh thổ Mân mà Nam Đường giành được thực sự chỉ là miền tây bắc và khu vực xung quanh Kiến châu). Lý Cảnh tức giận vì thất bại, muốn xử tử Trần Giác và Phùng Diên Lỗ, nhưng cuối cùng do lời khuyên can của Tống Tề Khâu và Phùng Diên Tị, chỉ lưu đày bọn họ., nhận thông tin sai lầm rằng Ngô Việt đã bỏ Phúc châu, nên quyết định dẫn quân tiến đánh. Khi ông ta đến gần thì gặp ở mai phục của tướng Ngô Việt ở trấn Uy Vũ đánh bại, bản thân ông ta bị bắt. Quốc vương Ngô Việt Tiền Hoằng Thục trả lại Văn Huy cho Nam Đường, đáp lại Nam Đường cũng trả lại một số tướng Ngô Việt đã bị bắt. Sau đó, quân Nam Đường không có thêm chiến dịch nào để lấy lại những phần lãnh thổ còn lại của nước Mân cũ.
Ngoại giao với Bắc triều
Mùa xuân năm 947, quân Khiết Đan xâm lược Trung Nguyên, tiêu diệt Hậu Tấn. Liêu Thái Tông Da Luật Đức Quang tự xưng hoàng đế ở Trung Nguyên. Lý Cảnh viết thư chúc mừng hoàng đế Khiết Đan, đồng thời cũng vì việc Lý Biện xưng là con cháu của nhà Đường, nên ông muốn sai người đến trông nom lăng tẩm các hoàng đế Đường. Thái Tông hoàng đế không theo, nhưng cũng cử sứ giả xuống nam đáp lễ. Lúc đó, nhiều đại thần Hậu Tấn không muốn thần phục người Khiết Đan nên đào thoát đến Nam Đường, và các thủ lĩnh nông dân ở miền bắc sông Hoài, sát biên giới Đường - Tấn cũng nguyện xưng thần với Nam Đường. Đại thần Hàn Hi Tái đề nghị rằng Nam Đường nên đưa quân bắc phạt thì có thể thu phục Trung Nguyên, nhưng vì lúc đó binh lực trong nước đều đổ dồn cho chiến trường Phúc châu nên không thể tiến hành được, khiến cho Lý Cảnh vô cùng tiếc nuối . Khi Lý Cảnh được tin quân Khiết Đan từ bỏ Đại Lương rút về phương bắc, ông đã muốn bắc phạt, để cho Lý Kim Toàn thống lĩnh quân. Tuy nhiên khi quân Đường còn chưa ra khỏi lãnh thổ thì tướng nước Tấn là Lưu Tri Viễn đã chiếm được Đại Lương và xưng hoàng đế Hậu Hán, Lý Cảnh không dám dương đầu với Lưu Tri Viễn, nên cho quân lui về.
Đầu năm 948, Lưu Tri Viễn chết, con trai là Lưu Thừa Hựu lên nối ngôi,, sai sứ cầu viện Nam Đường. Lý Cảnh sai Lý Kim Toàn bắt phạt. Quân Lý Kim Toàn tiến vào lãnh thổ Hậu Hán, đến Nghi châu, nhưng do Hà Trung ở khá xa, muốn đến phải vượt qua đất Hậu Hán và quân Nam Đường không có tinh thần chiến đấu, Lý Kim Toàn phải rút quân về. Lý Cảnh viết thư cho Lưu Thừa Hựu để xin lỗi, xin hoàng đế Hậu Hán tha thứ cho Lý Kim Toàn và nối lại quan hệ thông thương. Hán đế không đáp lại. Không lâu sau đó, Lý Kim Toàn bị tướng Hậu Hán là Quách Uy đánh bại. Đến năm 951, Quách Uy lấy ngôi vua, lập ra Hậu Chu.
Đầu năm 952, tướng Hậu Chu là Mộ Dung Ngạn Siêu (em cùng mẹ với Hậu Hán Cao Tổ Lưu Tri Viễn) khởi binh chống lại Hậu Chu, sai người cầu viện Nam Đường. Tuy nhiên, quân cứu viện Nam Đường bị Hậu Chu đẩy lùi, không lâu sau Ngạn Siêu bị đánh bại. Quách Uy trao trả tù binh Nam Đường Yến Kính Quyền, và để đáp lại, Lý Cảnh trả lại các tướng Trung Nguyên bị Giang Nam bắt được khi trước., độc lập với phần còn lại của Sở quốc., giết Mã Hy Quảng, tự xưng là Sở vương., chờ thời cơ đánh Sở. Không lâu sau đó, quan ở Vũ Bình là Vương Quỳ và Chu Hành Phùng vì bất mãn với Mã Hy Ngạc bèn trốn khỏi Đàm châu đến thủ phủ Vũ Bình là Lãng châu và chiếm giữ nơi này, phế lưu hậu Mã Quang Tán (con Mã Hy Ngạc) và lấy trưởng tôn của Mã Ân là Mã Quang Huệ lên thay, nhưng chiếm giữ hết mọi quyền hành. Mã Hy Ngạc trình bày việc với Lý Cảnh, Lý Cảnh cử sứ đến Vũ Bình chiêu dụ, hi vọng bọn họ thần phục mình. Tuy nhiên bọn Vương Quỳ lấy hết lễ tặng, mà đuổi sứ giả. Sau đó lại đổi tôn Lưu Ngôn làm Tiết độ sứ Vũ Bình, Lưu Ngôn sai sứ yêu cầu công nhận, Lý Cảnh không đáp. Do đó, Lưu Ngôn xưng thần với Hậu Chu (do Quách Uy dựng lên, là triều tiếp sau Hậu Hán).
Sau khi vào Đàm châu, Mã Hy Ngạc tối ngày rượu chè bê tha, không quan tâm gì đến việc nước cả. Mùa thu 951, tướng lại Đàm châu nổi loạn, trục xuất Hi Ngạc. Em trai là Mã Hy Sùng lên thay nắm quyền. Mã Hy Sùng đày Mã Hy Ngạc đến Hành Sơn, hi vọng rằng tướng áp giải Bành Sư Cảo, người trước kia theo Mã Hi Quảng nên bị Mã Hy Ngạc phạt nặng, sẽ giết Hi Ngạc để báo thù. Tuy nhiên Sư Cảo không theo, vẫn áp giải Hi Ngạc tới nơi an toàn. Nghe tin về cuộc biến động, Lưu Ngôn đem quân đội đánh vào Đàm, Mã Hy Sùng rất sợ hãi. Theo yêu sách của Lưu Ngôn, Mã Hy Sùng xử tử rất nhiều quan lại ủng hộ Mã Hy Ngạc, song Lưu Ngôn vẫn tiếp tục hạch sách. Với việc một lúc phải đương đầu với cả hai phía, thủ hạ của Mã Hy Sùng còn muốn ám sát ông ta. Mã Hy Sùng sợ hãi, cử Phạm Thủ Mục đến triều đình Nam Đường, xin dâng đất quy phụ. Lý Cảnh sai Biên Hạo đến Đàm châu nhận hàng, kết thúc thời kì trị vì của họ Mã ở Sở quốc. Vì dân Sở gặp phải nạn đói do chiến tranh liên miên , Biên Hạo phân phát của cải trong ngân khố của họ Mã cho dân chúng, khiến người Sở rất bằng lòng. Sau đó, khi Mã Hy Ngạc xin được phục chức Tiết độ sứ Vũ An (trị sở là Đàm châu), người dân ở đây ghét Mã Hy Ngạc vì những hành động trước đây, thỉnh cầu để cho Biên Hạo làm Tiết độ sứ, Lý Cảnh đồng ý. Lý Cảnh cho phép Mã Hy Ngạc tiếp tục là Sở vương, nhưng dời đến Hồng Châu. Về Mã Hy Sùng, thì được ban những chức vụ nhỏ hơn, cùng với các quan nước Sở bị chuyển đi xa lãnh thổ cũ., rơi vào tay Nam Hán. Lý Cảnh chuẩn bị đem quân thu phục Vũ Bình và Tĩnh Giang, nhưng trước mùa hạ năm 952, triều đình nghị định từ bỏ chiến dịch Tĩnh Giang và cho phép Lưu Ngôn xưng thần chứ không tiêu diệt toàn bộ. Khi ông bàn bạc với Tôn Thịnh và Phùng Diên Dị, những người đang chấp chính khi đó, Tôn Thịnh bằng lòng, nhưng Phùng Diên Dị phản đối, cho rằng như vậy sẽ khiến cho việc dồn quân đánh Sở thì không nên công cán gì. Tuy nhiên, cuộc tấn công vào thủ phủ Tĩnh Giang là Quế châu đã bị thất bại nặng nề trước quân Nam Hán. Tuy nhiên, năm 955, khi Thục chúa Mạnh Sưởng cử sứ giả đến đề nghị lập liên minh ba bên gồm Hậu Thục - Bắc Hán - Nam Đường, ông lại đồng ý, mặc dù không có hành động quân sự nào thực sự diễn ra trong liên minh này.
Chiến tranh với Hậu Chu
Ban đầu, chính quyền Nam Đường bố trí lực lượng phòng thủ chặt chẽ ở phía nam sông Hoài, đặc biệt là khi triều thấp. Tuy nhiên, vào một thời điểm trước năm 955, vì biên cương phía bắc không có chiến sự, tướng Ngô Đình Thiệu đề nghị dỡ bỏ chế độ này để tiết kiệm ngân khố. Ý kiến của Đình Thiệu được triều đình chấp thuận, bất chấp sự phản đối quyết liệt từ Lưu Nhân Chiêm, Tiết độ sứ Thanh Hoài). Sau đó, cuối năm 955, Hậu Chu cử đại binh nam chinh, do Lý Cốc và Vương Ngạn Siêu chỉ huy, quân Nam Đường hoàn toàn rơi vào thế bị động. Lý Cảnh sai Lưu Ngạn Trinh dẫn quân hỗ trợ Lưu Nhân Chiêm đang bị vây ở Thọ châu, và triệu Tống Tề Khâu đang là tiết độ sứ Trấn Nam quân, trở về Nam Xương bàn kế. thì gặp phải quân phản kích của Lý Cốc. Kết quả quân Đường đại bại, 10.000 tướng sĩ bị giết trong đó có Lưu Ngạn Trinh, còn Hàm Sư Lãng bị bắt sống. Không lâu sau đó, hoàng đế Hậu Chu Quách Vinh (con nuôi Quách Uy) đích thân dẫn quân thiết lập lại vòng vây quanh Thọ châu, dùng em họ là Lý Trọng Tiến làm chỉ huy đại quân. Lý Cảnh viết thư cho Quách Vinh, nói rằng: "Đường hoàng đế kính cẩn dâng thư lên Đại Chu hoàng đế. Quả nhân thỉnh cầu nhà vua nghỉ quân và lập lập hòa bình. Quả nhân sẵn sàng tôn nhà vua làm huynh, cống nạp tiền bạc vải vóc khao quân." Quách Vinh không đáp. Lo sợ về những điều có thể xảy đến nếu quân Đường lại thua nữa, Lý Cảnh cử các đại thần Chung Mô và Lý Đức Minh vốn có tài ăn nói, đem vải vóc, trà, thuốc men, vàng, bạc, trâu bò và rượu đến trại Chu cầu hòa. Tuy nhiên khi Chung Mô và Lý Đức Minh đến nơi, Quách Vinh quở trách thậm tệ và từ chối hòa nghị, bắt Lý Cảnh phải đích thân quỳ gối tạ lỗi. Sứ giả Nam Đường cũng tới triều Liêu, đề nghị nhà Liêu dẫn binh nam hạ, cùng đánh Hậu Chu đã bị quân Hậu Chu bắt giữ giữa đường. Trong khi đó, lo ngại quân Hậu Chu sẽ dùng hoàng thất họ Dương nước Ngô cũ đang ở Thái châu để làm danh nghĩa chống lại mình, Lý Cảnh sai Doãn Diên Phạm đưa những người này về Nhuận châu. Tuy nhiên, vì đường sá khó đi, cộng thêm lo sợ bọn họ Dương sẽ nổi dậy chống lại, Diên Phạm quyết định giết hết tất cả cho đỡ phiền phức. Lý Cảnh nghe tin, hạ lệnh xử tử Diên Phạm.
Sau đó, thông qua Lý Đức Minh và Tôn Thịnh, Lý Cảnh còn xin từ bỏ đế hiệu; xưng thần cống nạp, cắt đất sáu châu — Thọ, Hào, Tứ, Sở , Quang , và Hải — cho Hậu Chu. Tuy nhiên, Quách Vinh đang rất tự tin với liên tục những chiến thắng, nghĩ rằng mình còn có thể gom hết lãnh thổ Nam Đường ở phía bắc Trường Giang, nên từ chối. Lý Đức Minh và Tôn Thịnh xin Quách Vinh cho Đức Minh và Vương Sùng Chất về nam để nói lại yêu sách của hoàng đế Hậu Chu, và đích thân Quách Vinh viết thư cho Lý Cảnh và các trọng thần Nam Đường, chấp nhận hòa nghị, nhưng phải theo các điều khoản do Hậu Chu đặt ra. Lý Cảnh lại một lần nữa dâng biểu tạ ơn Bắc triều. Lý Đức Minh về kinh, nói rằng quân Chu thế mạnh, và bây giờ chỉ có cách theo yêu cầu của họ là cắt đất 14 châu phía bắc Trường Giang. Tuy nhiên, Lý Cảnh thấy tức giận vì điều này, và Tống Tề Khâu can rằng việc cắt đất là có hại cho quốc gia. Hơn thế nữa, Trần Giác, vốn ghét Lý Đức Minh và Tôn Thịnh, nên lôi kéo Vương Sùng Chất nói khác đi với lời của Đức Minh. Rồi họ gièm với Lý Cảnh rằng, "Lý Đức Minh bán nước mưu lợi." Giận dự, Lý Cảnh xử tử Lý Đức Minh — cuộc đàm phán rơi vào bế tắc.), quyết định triệu hoàng trưởng tử Lý Hoằng Kí, đang ở Nhuận châu về Kim Lăng, vì nhận thấy Hoằng Kí còn quả trẻ để lĩnh quân. Tuy nhiên Lý Hoằng Kí nghe lời cận thần Triệu Đạc, cho rằng nếu rời Nhuận châu, sẽ khiến nơi này và các châu quận lân cận hoảng hốt, nên kháng lệnh và bố trí phòng thủ. Ông ta cũng cử quân hỗ trợ Sài Khắc Hoành cùng chống Ngô Việt. Khắc Hoành đánh tan quân Ngô Việt do Ngô Trình chỉ huy, chấm dứt cuộc xâm lăng của Ngô Việt. và Hòa châu, trong khi Lý Bình chiếm lại Kì châu). Với những thất bại đó cộng thêm Lý Cảnh Đạt đã đưa quân tới Thọ châu, Quách Uy quyết định triệt quân khỏi Giang Đô, tập trung lực lượng giữ Thọ châu. Quân Lý Cảnh Đạt tiến gần đến Thọ châu, nhưng không dám đương đầu với quân Hậu Chu., Thọ, Kì và Cương (nay thuộc Cương Châu).
Lúc này, Lý Cảnh Toại đã giữ địa vị Hoàng thái đệ được 10 năm, dâng sớ tâu rằng Lý Hoằng Kí lập được đại công đẩy lùi Ngô Việt, nên lập làm Hoàng thái tử. Lý Cảnh Đạt cũng xin từ chức Nguyên soái. Lý Cảnh chấp thuận, cải phong Thái đệ Lý Cảnh Toại làm Tấn vương, điều đến Hồng châu, điều Lý Cảnh Đạt ra Phủ châu ). Ông tấn phong Hoằng Kí làm Hoàng thái tử.
Phẫn uất mà chết
Mùa hè năm 958, Lý Hoằng Kí lo sợ rằng Lý Cảnh sẽ phục ngôi Hoàng thái đệ cho Lý Cảnh Toại, bèn đầu độc ông ta đến chết. Sau đó Lý Cảnh lại thượng thư lên Bắc triều xin nhường ngôi cho Lý Hoằng Kí nhưng Quách Vinh không theo. Bắc triều thả Phùng Diên Lỗ bị bắt trước đây, cùng Chung Mô, Hứa Văn Chẩn và Biên Hạo về nam. Lý Cảnh thấy Hứa Văn Chẩn và Biên Hạo làm tướng thua trận, nên cấm không cho họ cầm quân nữa.
Mùa xuân năm 961, Lý Cảnh dời đô tới Hồng châu, đổi tên nơi này là Nam Xương. Ông phong Lý Tòng Gia làm Hoàng thái tử, ở lại Kim Lăng để giám sát việc dời đô. Tuy nhiên khi đến Nam Xương, ông thấy nơi này quá nhỏ bé để làm quốc đô, chỉ chứa được có một hai phần mười quan lại trung ương và không dễ mở rộng thành. Các đại thần nhớ Kim Lăng, và Lý Cảnh cũng thường thở dài mà trông về phương bắc. Đại học sĩ Tần Thừa Dụ muốn làm ông bớt buồn, nên lấy bình phong chắn đi tầm nhìn của ông. Ông tức giận chuẩn bị luận tội, Thừa Dụ vì sợ hãi mà chết.
Lý Cảnh qua đời vào mùa hạ năm 961. Ông để lại di thư, muốn được chôn ở ngọn núi phía tây Nam Xương. Tuy nhiên quan tài của ông lại được đưa về an táng tại Kim Lăng. Lý Tòng Gia lên ngôi ở Kim Lăng, đổi tên là Lý Dục và quyết định giữ quốc đô ở đó, không dời đi nữa. Sau đó, theo thỉnh cầu của Lý Dục, Lý Cảnh được truy tôn là "hoàng đế", mộ của ông được coi là lăng. Tục Tư trị thông giám đánh giá về Lý Cảnh như sau: