✨Lý Bí (nhà Đường)

Lý Bí (nhà Đường)

Lý Bí (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là Trường Nguyên (), tước phong Nghiệp huyện hầu (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cố vấn tối cao của triều đình dưới 3 triều Hoàng đế nhà Đường là Túc Tông, Đại Tông và Đức Tông – nhưng không chịu ra làm quan trong nhiều năm, đến tận khi đã hơn 60 tuổi mới chính thức vào triều làm tể tướng cho Đường Đức Tông. Ông là một nhân vật gây rất nhiều tranh cãi trong giới sử gia, nhiều người coi ông là kẻ phù phiếm và lập dị, trong khi một số khác đánh giá rất cao tài năng của ông trong các chính sách đối ngoại và quân sự..

Tuổi trẻ

thumb|Lý Bí

Lý Bí chào đời năm 722, tức năm thứ 10 Khai Nguyên đời vua Đường Minh Hoàng. Gia đình ông cư ngụ tại kinh đô Trường An, song tổ tiên của ông xuất xứ từ bán đảo Liêu Đông. Thủy tổ Lý Đàm là tướng nước Tần thời Chiến Quốc (và sau đó là nhà Tần). Con của Lý Đàm là Lý Tề, sau làm Thừa tướng nước Triệu. Gia tộc họ Lý nhiều đời xuất sĩ làm quan trong các triều đại nhà Hán, nhà Tấn, Hậu Yên, Bắc Ngụy và Bắc Chu. Đến đời phụ thân của Lý Bí tên là Lý Thừa Hưu chỉ giữ chức quan ở huyện.

Sử sách ghi nhận rằng Lý Bí biết đọc, viết từ năm lên 6 và nhanh chóng nổi tiếng trên chốn quan trường bởi tính thông minh và khéo léo của mình trong các vấn đề bác học (bác thiệp kinh sử, tinh cứu dịch tượng, thiện chúc văn, vưu công ư thi, dĩ vương tá tự phụ). Vào một năm nọ, khi Đường Minh Hoàng ra chiếu kén chọn trên khắp cả nước những người thông thạo về Đạo Nho, đạo Lão và đạo Phật, các quan lại đều có thể tiến cử những người mà họ biết lên Hoàng đế. Có đứa bé mới lên 9 tên là Viên Thục (), cháu nội của một học giả nổi tiếng Viên Bán Thiên (), đồng thời là anh em con cô cậu với Lý Bí (mẹ của Viên Thục là chị của Lý Thừa Hưu), đã tự tiến cử mình với nhà vua. Khi nhà vua hỏi Viên Thục có còn biết ai khác cũng có biệt tài giống mình không, Viên Thục đã đề cử Lý Bí. Vì thế Minh Hoàng triệu Lý Bí vào cung diện thánh. Khi Lý Bí đến, nhà vua đang chơi cờ vây với quan đại thần là Yến quốc công Trương Thuyết, và Trương Thuyết đang tìm cách thử tài cậu bé Lý Bí, đã ra một vế đối, vịnh về việc đánh cờ, lấy 4 chữ đầu đề là "Phương", "Viên", "Động", "Tĩnh" và yêu cầu Lý Bí vịnh một bài thơ về chuyện đời để đối lại. Lý Bí sau đó đã hoàn thành xuất sắc thử thách này, khiến nhà vua và Trương Thuyết đều tỏ ra rất thích thú, và Trương Duyệt chúc mừng nhà vua đã tìm ra một đứa bé thần đồng. Nhà vua sau đó ban thưởng hậu hĩnh cho nhà họ Lý và căn dặn phải nuôi dưỡng cậu bé thật tốt. Nhà vua cũng cho Lý Bí giao thiệp với Hoàng tử thứ 3 của mình, là Trung vương Lý Hanh.

Sau này Lý Bí được học rất nhiều các tác phẩm của giới Nho giáo cũng như môn lịch sử, nhưng ông đặc biệt có năng khiếu với kinh Dich. Ông cũng là một nhà thơ tài năng, và ấp ủ hi vọng được cống hiến cho hoàng gia và đất nước. Rất nhiều đại thần cao cấp như Trương Cửu Linh, Vi Hư Tâm, Trương Đình Khuê đều đánh giá cao cậu bé Lý Bí. Đặc biệt là tể tướng Trương Cửu Linh đã coi Lý Bí như bạn bè bất chấp chênh lệch về tuổi tác, và còn thường mời Lý Bí đến nhà đàm đạo. Tuy nhiên Lý Bí không hào hứng mấy với những ganh đua trong chốn quan trường, và thế khi trưởng thành ông thường bỏ nhà đi ngao du đến các nơi như Tung Sơn, Hoa Sơn hay núi Tần Lĩnh, nói là tìm kiếm tiên nhân để học cái thuật trường sinh bất lão....

Trong lúc này, Lý Bí đệ trình lên Túc Tông kế hoạch tiêu diệt quân Yến như sau:. Viện quân từ hai xứ An Tây , và các nước Tây Vực đều hội quân ở Phường Tường. Lúc này Lý Bí bàn nên theo kế hoạch khi trước, chiếm Phạm Dương để cắt đường về của quân Yến trước, thu phục lưỡng kinh sau. Tuy nhiên Túc Tông không đồng ý, vì ông muốn nhanh chóng chiếm lại Trường An càng sớm càng tốt để còn rước Thái Thượng hoàng về kinh. Lý Bí chỉ ra rằng nếu làm như vậy không tận diệt được gốc rễ phản quân, mà quân hai xứ An Tây, Tây Vực chiếm hai kinh rồi sẽ mệt mỏi, không còn muốn chiến đấu nữa, là cơ hội để quân Yến khôi phục lực lượng gây mầm họa sau này.)

Mùa hạ năm 757, với sự trợ giúp của Hồi Hột, quân Đường dưới quyền của Lý Thục thu hồi Tây Kinh Trường An. Túc Tông gửi thư cho Lý Bí mời ông vào kinh. Khi Lý Bí đến nơi, Túc Tông bàn rằng ông có ý muốn mời Thượng hoàng trở lại ngôi vua, còn bản thân về Đông cung cho trọn đạo thần tử. Lý Bí chỉ ra rằng :Thượng hoàng không chịu về đâu. Bởi vì Bệ hạ nối ngôi 2 năm nay đã đổi niên hiệu rồi, mà Thượng hoàng tuổi cao mệt mỏi, nay dâng tấu như vậy Ngài sẽ có ý nghi ngờ, thì sao mà chịu về nữa.

Quả nhiên Thượng hoàng phúc đáp rằng muốn ở lại Kiếm Nam, không có ý về đông nữa. Chỉ khi Túc Tông theo lời Lý Bí, làm một tờ biểu khác, không nhắc gì tới việc trả ngôi, Thượng hoàng mới đồng ý về Trường An.

Ẩn cử Hành Sơn

Sau khi nhà Đường khôi phục hai kinh rồi, Lý Bí lại xin từ chức trở về núi tu hành. Vua Túc Tông ngạc nhiên hỏi tại sao. Lý Bí cho rằng nếu ở lại thì sẽ phải bị tiểu nhân hãm hại đến chết (trong lời nói của ông ám chỉ đến Trương thục phi, lúc này đã là Hoàng hậu, và Lý Phụ Quốc, hoặc tể tướng Thôi Viên) :Bệ hạ có nghe Hoàng đài qua chưa? Cao Tông Thiên Hoàng bệ hạ có tám người con trai, Thiên Hậu sinh được bốn vị, Duệ Tông tổ phụ bệ hạ là nhỏ tuổi nhất. Con trưởng là Hoằng được phong Thái tử, là người anh minh nhân hiếu. Thiên Hậu có ý lâm triều xưng Chế, giết Hoằng đi, lập con thứ là Hiền. Hiền do việc đó mà ưu sầu, mỗi lần lên triều không dám nói gì, sau đó thì sáng tác nhạc chương mong cảm ngộ Thượng và Hậu. Lời nhạc có hai câu là: Lần đầu hái một quả dưa/Lần sau quả nữa, dễ chưa vừa lòng? Nhưng về sau Hiền cũng bị Hậu bài xích rồi chết ở Kiềm Trung. Nay Bệ hạ đã hái một quả rồi, xin đừng hái thêm nữa

Đó là bởi vì khi đó Trương hoàng hậu luôn coi Lý Thục là cái gai trong mắt, hai bên không ngừng minh tranh ám đấu. Lý Bí cố tình nói như vậy để nhắc nhở Túc Tông không phạm thêm sai lầm nữa. Sau này do Lý Bí cương quyết muốn từ chức, Túc Tông bất đắc dĩ phải chịu trả quần áo người tu hành, cho ông về ẩn cư ở Hành Sơn, hưởng quy chế bổng lộc như quan tam phẩm., đem bài vị thờ chung với Phụng Thiên hoàng đế Lý Tông - con trưởng của Đường Huyền Tông, nghênh quan tài từ Bành Nguyên về triều.

Năm 770, Đường Đại Tông về tể tướng Nguyên Tái giết chết Ngư Triều Ân. Kể từ đó Nguyên Tái trở nên chuyên quyền. Do căm ghét Lý Bí được vua trọng dụng, Nguyên Tái gièm pha rằng Lý Bí là đồng đảng của Triều Ân. Đại Tông lúc đó e ngại thế lực của họ Nguyên, đành phải dời Lý Bí đến trấn Giang Tây phục vụ dưới trước Tiết độ sứ Ngụy Thiếu Du ()., đồng thời giữ chức Đoàn luyện sứ hai châu lân cận Lãng, Hạp.. Sau dời làm Thứ sử Hàng châu, trong thời gian ở địa phương có nhiều thành tích.

Cũng năm 779, Đại Tông băng hà. Thái tử Thích lên nối ngôi là vua Đường Đức Tông., rồi vua triệu Lý Bí cùng Thứ sử Mục châu , đến cứu viện cho triều đình. Cuối năm này phản quân bị dẹp yên, Đức Tông trở về Trường An, phong Lý Bí làm Tả Tán kị thường thị (), chức quan đứng đầu Môn hạ tỉnh. Từ thời điểm này các đại thần và người dân đều rất phấn khích chờ xem Lý Bí sẽ dâng lên nhà vua những mưu sách gì. Đương thời Lý Hoài Quang làm phản ở Hà Trung , và Đức Tông lo sợ biến loạn sẽ còn kéo dài, nhưng Lý Bí an ủi nhà vua rằng Lý Hoài Quang không đủ uy quyền để khiến các tướng sĩ dưới trướng phục tùng, khiến Đức Tông được yên tâm phần nào. Trước đây Hà Bắc tứ trấn (Điền Duyệt, Vương Vũ Tuấn, Chu Thao, Lý Nạp) liên minh chống Đường, Đức Tông đã xá tội cho họ để tập trung lực lượng đánh Chu Thử. Về phần Lý Hoài Quang nguyên là tướng triều đình trở cờ làm phản, Đức Tông cũng có ý xá tội luôn, nhưng Lý Bí ngăn cản đi. Ngược lại thì ông nói giúp cho Hàn Hoành, Tiết độ sứ Trấn Hải , người đang bị Đức Tông nghi ngờ có mưu đồ chống đối. Nghe lời lời khuyên của Lý Bí, Đức Tông gửi một đoàn sứ giả, bao gồm con trai của Hàn Hoành là Hàn Cao (đang làm con tin ở Trường An) đến Trấn Hải để thể hiện sự tin tưởng của nhà vua với Hàn Hoành. Đáp lại, Hàn Hoàn đã gửi về Trường An số lượng lương thực giúp Quan Trung được phục hồi sau nạn đói.

Năm 785 (), Trương Khuyển, Tiết độ sứ Thiểm Quắc, bị thuộc tướng là Đạt Hề Bão Bão ám sát để đoạt chức. Đức Tông lo ngại Bão Bão sẽ liên kết với Lý Hoài Quang, vì thế gửi Lý Bí đến Thiểm Quắc để ổn định tình hình. Ban đầu ông tuyên bố rằng chỉ đến đây để đảm bảo rằng nguồn cung cấp lương thực sẽ tiếp tục được chuyển tới Trường An, hứa với Bão Bão rằng ông sẽ tiến cử ông ta lên làm Tiết độ sứ. Tuy nhiên, sau khi giải quyết ổn Phòng ngự sứ để trông coi công việc ở trấn (thay vì Tiết độ sứ). được gửi đến phía tây tham gia chống quân Thổ Phiên xâm lấn, nhưng họ lại đào ngũ giữa đường và quay ra cướp bóc dân chúng trong vùng kiểm soát của Lý Bí, và ông đã cho quân đàn áp chúng.

Tể tướng nhà Đường

Cuối năm 787, vua Đức Tông triệu hồi Lý Bí về Trường An và phong làm Trung thư thị lang (), tương đương với Phó Thủ tướng, gia thêm Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (). Do chức Trung thư lệnh bỏ trống nên Lý Bí chính là thủ tướng trên thực tế của nhà Đường khi đó. Ngoài ra ông được được giữ chức học sĩ viện Tập hiền để lo việc quốc sử, ban thêm tước Nghiệp huyện hầu., phát hiện ra rằng con trai của Thúc Minh là Lý Thăng, đang là một viên quan trẻ cấp thấp, có qua lại với dì của Đức Tông - đồng thời là mẹ đẻ của Thái tử phi Tiêu thị - là Công chúa Cáo quốc. Ông ta tấu việc lên Đức Tông, ám chỉ rằng Lý Thăng có quan hệ mờ ám với Công chúa Cáo quốc. Khi nhà vua đem việc này hỏi Lý Bí, thì ông đã sớm đoán biết rằng chính họ Trương là người cáo mật, và đề nghị không điều tra, vì những chuyện thế này sẽ làm tổn hại đến danh dự của Thái tử Lý Tụng. Đổi lại, Đức Tông dời Lý Thăng đến làm việc ở Đông cung để không còn qua lại với công chúa nữa.

Trong lúc này, một rắc rối trong triều đình xảy ra từ vị trí của công chúa Cáo quốc. Bà ta vẫn tiếp tục quan hệ tình cảm với Lý Thăng và các quan viên trẻ khác, cuối cùng bị giới quý tộc cùng nhau tố cáo. Trong cơn giận dữ, Đường Đức Tông cho giam cầm công chúa, và nghi ngờ Thái tử Lý Tụng có đồng lõa trong vụ này. Thái tử bị buộc phải li dị với Thái tử phi, song ông không đồng ý, khiến Đức Tông càng giận dữ hơn và tính tới chuyện phế Thái tử để đưa người con nuôi là Thư vương Lý Nghị () lên thay. Lý Bí ra sức cầu xin cho Thái tử, đến nỗi suýt nữa là bị vạ lây. Cuối cùng Đức Tông nhớ tới chuyện của Lý Đàm trước kia mới tha tội cho Thái tử..

Trong khi đó, nhà vua cảm thấy phiền lòng vì không có đủ tiền để phục vụ cho những trò tiêu khiển cá nhân. Lý Bí đã thiết lập một hệ thống mới trong đó một phần thu nhập của quốc khố sẽ được dùng cho mục đích cá nhân của hoàng đế, trong một nỗi lực nhằm ngăn chặn nhà vua ăn chặn đồ cống phẩm của các địa phương - điều dễ dẫn tới chuyện các quan chức tăng cường bóc lột người dân để hiếu kính với Hoàng đế. Ngay cả khi Lý Bí đã làm như vậy, Đức Tông vẫn tiếp tục hạ lệnh các quan viên địa phương dâng đồ cống nộp, và còn nhấn mạnh đừng để Lý Bí biết chuyện này. Lý Bí rất buồn, nhưng ông quyết định không căn ngăn nhà vua nữa.

Trong văn hóa đại chúng

Lý Bí là một trong những nhân vật chính trong drama năm 2019 của điện ảnh Trung Quốc Trường An 12 canh giờ. Trong series này, ông được mô tả là thủ lĩnh của đội quân giữ gìn trật tự và khoác trên người bộ y phục đạo sĩ. Ông còn là thân tín của Thái tử và có quan hệ thân thiết với nhiều thành viên trong hoàng thất Lý Đường.

Tham khảo và chú thích

Thể loại:Sinh năm 722 Thể loại:Mất năm 789 Thể loại:Tể tướng Trung Quốc Thể loại:Nhà thơ Trung Quốc Thể loại:Nhà sử học Trung Quốc Thể loại:Ẩn sĩ Thể loại:Người Thiểm Tây Thể loại:Sinh năm 722 Thể loại:Chính khách từ Tây An Thể loại:Nhà thơ Trung Quốc thời Đường

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Lý Hoàn** (chữ Hán: 李峘, ? – 763), tông thất, quan viên nhà Đường. ## Thân thế Ông cụ là Ngô vương Lý Khác – hoàng tử thứ ba của Đường Thái Tông. Ông nội
**Lý Tư** (chữ Hán: 李滋, 844–863) là hoàng tử của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, con trai thứ tư của hoàng đế Đường Tuyên Tông, mẹ là Ngô chiêu nghi (吴昭仪).
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, ? – ?), tông thất nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Hoàng tộc nhà Đường tự nhận có tổ tịch ở Lũng Tây (nay thuộc Cam
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Lý Thư Hùng** (chữ Hán: 李忠; 643 - 665), biểu tự Bổn **Chính Quân** (正本), là Hoàng tử đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, và cũng trở thành người đầu tiên là Hoàng
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trương Tuấn** (張濬, ? - 20 tháng 1 năm 904), tên tự **Vũ Xuyên** (禹川), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường Hy
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Đường Lâm** (chữ Hán: 唐临, 600? – 659?), tên tự là **Bổn Đức**, tịch quán ở Trường An, Kinh Triệu , là quan viên nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Lý Quỹ** (chữ Hán: 李揆, 711 – 784), tự **Đoan Khanh** (端卿), nguyên quán Thành Kỷ, Lũng Tây , tịch quán Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp** hay** Ủy ban Quản lý vốn nhà nước** là cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam; được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm
**Lý Hữu** (chữ Hán: 李祐, ? – 22/06/829), tự **Khánh Chi** , không rõ người ở đâu, tướng lãnh trung kỳ nhà Đường, có công tham gia trấn áp các lực lượng quân phiệt Chương
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王缙, 700 – 781), tự **Hạ Khanh**, người phủ Hà Trung, đạo Hà Đông , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tấn là thành viên
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Lý An** (chữ Hán: 李安,? – ?), tự **Huyền Đức**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , tướng lãnh nhà Bắc Chu và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Lý Thành** (chữ Hán: 李成, ? - ?), tự **Bá Hữu**, người Quy Tín, Hùng Châu, vốn là tướng lãnh cấp thấp nhà Bắc Tống, trở thành trùm giặc cướp ở khoảng Giang - Hoài;
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
**Lý Tự Tiên** (李嗣先, ?-687) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa tại An Nam chống lại sự đô hộ của nhà Đường năm 687. ## Tiểu sử Lý Tự Tiên là người ở Giao Châu,
**Ariq Qaya** (chữ Hán: 阿里海牙; 1227-1286) phiên âm Hán - Việt: **A Lý Hải Nha**, còn phiên thành **A Lạt Hải Nha**, **A Lực Hải Nha** hoặc **A Nhĩ Cáp Nhã**, là viên tướng lĩnh
**Lý Kỳ** (chữ Hán: 李頎, 690?-751?). Năm 735 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức Tân Hương úy, nhưng mãi về sau vẫn không được thăng chức.
**Lưu Phần** (chữ Hán: 刘蕡, ? – ?), tự **Khứ Hoa**, người Xương Bình, U Châu , danh sĩ ở giai đoạn trung kỳ đời Đường. ## Cuộc đời Phần ngụ cư ở khoảng Biện,
**Mã Lân** (chữ Hán: 马璘, 721 – 777), tự **Nhân Kiệt**, người Phù Phong, Kỳ Châu , tướng lãnh trung kỳ đời Đường. ## Thân thế Lân sinh ra trong gia đình nhiều đời làm
MÔ TẢ SẢN PHẨM Tranh thủ cách ly, ở nhà DƯỠNG_MI với - Serum dưỡng Dài Mi Team mi ngắn chúng mình từ giờ không phải lo đi nối mi thường xuyên nữa. Dịch thế
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Lý Hạ** (chữ Hán: 李贺; 790/791 – 816/817) là một nhà thơ sống vào thời Trung Đường. Ông có tên tự là **Trường Cát**, còn có các biệt hiệu **Thi Quỷ** và **Quỷ Tài**. Lý
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường