Vương Thức () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc nổi dậy của thủ lĩnh Cừu Phủ (裘甫).
Thân thế
Cựu Đường thư ghi cha của Vương Thức là Đồng bình chương sự Vương Bá (王播) còn Tân Đường thư thì ghi rằng cha của Vương Thức là Vương Khởi (王起)- đệ của Vương Bá, cũng là một triều sĩ.
Sự nghiệp ban đầu
Do xuất thân của mình, Vương Thức được giữ chức Thái tử chính tự, Sau đó, ông giữ chức Điện trung thị ngự sử. Ông được đánh giá là sống đạm bạc khi còn trẻ, tuy nhiên vào giữa những năm Thái Hòa (827-835), Vương Thức đã cố gắng dựa thế hoạn quan Vương Thủ Trừng và Trịnh Chú để thăng tiến, và khi trung thừa Quy Dung (歸融) hặc tội, ông phải ra khỏi kinh thành đến giữ chức Giang Lăng thiếu doãn. thứ sử. Đương thời, khu vực Hoàng Hà uốn khúc xảy ra nạn đói lớn, người dân lưu tán khắp nơi. Chỉ có một vài châu hoan nghênh dân lưu tán, trong đó có Vương Thứ, các nỗ lực của ông đã cứu sống được vài nghìn người. Người Hồ trong khu vực cũng bị đói và họ tiến vào các thành cướp bóc, song sau khi hay tin Vương Thức cai quản nghiêm, họ tránh tiến công Tấn châu. đô hộ, kinh lược sứ. Khi đó, An Nam phải chịu các cuộc tiến công liên tiếp của Nam Chiếu (lúc đó mang quốc hiệu Đại Mông), do khi trước An Nam đô hộ Lý Trác (李涿) chính tham bạo cường nên người dân An Nam bản địa (trong đó có Lý Do Độc thủ lĩnh châu Lâm Tây) ủng hộ quân Nam Chiếu xâm nhập. Sau khi Vương Thức đến An Nam, ông cho dựng cây làm hàng rào ở các thành, do vậy có thể chống trả được các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu.
Vương Thức cũng phải đối phó với các thuộc hạ nổi loạn, An Nam đô hiệu La Hành Cung (羅行恭) đã tập hợp 2.000 tinh binh quân dưới quyền chỉ huy của mình, trong khi quân do đô hộ chỉ huy yếu kém hơn và chỉ có số lượng vài trăm, do đó La Hành Cung kháng lại các mệnh lệnh của đô hộ. Sau khi Vương Thức đến, ông phạt đánh gậy La Hành Cung và cách chức đuổi ra vùng biên ải. Cũng trong năm đó, một nhóm binh lính do sợ rằng sẽ bị quân Đường từ Dung Quản tiến công nên đã bao vây quân phủ của Vương Thức, yêu cầu ông rời khỏi An Nam trở về phương Bắc, mục đích là để họ có thể phòng thủ thành trước một cuộc tiến công của Dung Quản. Vương Thức từ chối và quở trách, các binh lính này chạy trốn song sau đó bị Vương Thức bắt được và hành quyết. Vương Thức tiếp tục sử dụng các thủ đoạn khác nhau nhằm gây chia rẽ trong gia tộc tù trưởng họ Đỗ- thế lực từ lâu đã chống đối sự cai trị của các An Nam đô hộ, khiến tù trưởng Đỗ Thủ Trừng (杜守澄) chết trên đường chạy trốn. Theo tường thuật, trong 6 năm liên tiếp trước khi Vương Thức đến, An Nam không cống nạp hay nộp thuế cho triều đình, cũng không khao thưởng tướng sĩ, và Vương Thức đã phục hồi lại những việc này sau khi ông bình định khu vực. Do vậy, các vương quốc Chiêm Thành và Chân Lạp láng giềng lại tiếp tục mối quan hệ triều cống của họ với Đại Đường., còn Chiết Đông quan sát sứ Trịnh Kỳ Đức (鄭祇德) không trấn áp nổi. Theo đề xuất của Môn hạ thị lang Hạ Hầu Tư, Đường Ý Tông bổ nhiệm Vương Thức là Chiết Đông quan sát sứ thay thế Trịnh Kỳ Đức. Khi yết kiến Đường Ý Tông, Vương Thức thỉnh cầu được giao một đội quân có quân số lớn, một thái giám tháp tùng hoàng đế đã phản đối do vấn đề chi phí. Tuy nhiên, Vương Thức biện luận rằng Giang-Hoài là nguồn thu thuế chính của đế quốc, và nếu việc trấn áp Cừu Phủ thất bại thì triều đình sẽ thiệt hại còn nhiều hơn là dồn sức cho một chiến dịch thành công. Đường Ý Tông chấp thuận và huy động binh lính từ các trấn: Trung Vũ, Nghĩa Thành, và Hoài Nam đến trấn áp quân nổi dậy dưới quyền Vương Thứ.
Khi Vương Thức tiến đến Chiết Đông, ông mộ thêm những người Hồi Cốt và Thổ Phồn lưu vong sinh sống trong khu vực Giang Hoài phụng sự cho mình, mục đích là để cải thiện khả năng di chuyển cho đội quân của ông do những người Hồi Cốt và Thổ Phồn lưu vong có tài cưỡi ngựa. Vương Thức phân đội quân của mình làm hai đạo tiến công Cừu Phủ theo hai hướng. Ông sử dụng một số chiến thuật khiến các sĩ quan giàu kinh nghiệm trong đội quân của ông cũng phải ngạc nhiên:. Vương Thức bao vây Diệm, Cừu Phủ sau đó đầu hàng. Vương Thức xử tử 20 thuộc hạ dưới quyền Cừu Phủ và giải Cừu Phủ đến Trường An. đã tiến hành binh biến và trục xuất tiết độ sứ Ôn Chương (溫璋). Đường Ý Tông lập Vương Thức làm Vũ Ninh tiết độ sứ và lệnh cho ông đem các binh sĩ Trung Vũ và Nghĩa Thành từng tham gia đánh Cừu Phù đến Vũ Ninh. Các binh sĩ Ngân Dao hay tin thì trở nên lo sợ, và ba ngày sau khi Vương Thức đến, ông đã tuyên bố thiết đại tiệc tiễn các binh sĩ Trung Vũ và Nghĩa Thành, các binh sĩ cũng tham dự tiệc. Trong đại tiệc, Vương Thức lệnh cho các binh sĩ Trung Vũ và Nghĩa Thành bao vây và đồ sát các binh sĩ Ngân Dao, kết quả vài nghìn người bị giết. Sau đó, Đường Ý Tông hạ lệnh triệt tiêu Vũ Ninh, lãnh địa của trấn này bị phân chia giữa Hoài Nam và Duyện Hải, và Túc Tứ được thành lập mới. Vương Thức được giao phụ trách hoạt động phân bổ các tướng sĩ Vũ Ninh cho các quân này. Sau khi công việc hoàn tất, Vương Thức trở về kinh sư, giữ chức Tả kim ngô đại tướng quân cho đến cuối đời.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王缙, 700 – 781), tự **Hạ Khanh**, người phủ Hà Trung, đạo Hà Đông , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tấn là thành viên
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Đại Vương cung thánh đường Giáo tông Thánh Phêrô tại Vatican** (tiếng Ý: _Basilica Papale maggiore di San Pietro in Vaticano_) hay đơn giản là **Vương cung thánh đường Thánh Phêrô** (tiếng Latinh: _Basilica Sancti
thumb|Sơ đồ tầng của Nhà thờ Thánh Lôrensô Đamasô tại Roma, là một vương cung thánh đường. Nó được xây dựng theo kiểu kiến trúc vương cung basilica: một tòa nhà hình chữ nhật với
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang** (tên khác: **Nhà thờ La Vang**) là một nhà thờ Công giáo Rôma thuộc Tổng giáo phận Huế, tọa lạc ở xã Hải Lăng, Quảng Trị, Việt
**Trương Tuấn** (張濬, ? - 20 tháng 1 năm 904), tên tự **Vũ Xuyên** (禹川), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường Hy
**Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội** là một công trình nổi tiếng của Giáo hội Công giáo Rôma ở thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ. Công trình
**Tổng lãnh vương cung thánh đường Nhà thờ chính tòa Chúa Cứu thế Cực Thánh và Thánh Gioan Tẩy giả và Thánh sử Gioan tại Latêranô** – còn được biết đến với những tên gọi
**Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành** (tiếng Ý: _Basilica Papale di San Paolo fuori le Mura_, có tên khác là **Nhà thờ Thánh Phaolô**) là một trong bốn đại vương cung thánh đường
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Vương cung thánh đường Đức Mẹ Hòa Bình** () là một tiểu vương cung thánh đường Công giáo La Mã dành cho Đức Mẹ Hòa Bình nằm tại Yamoussoukro, thủ đô hành chính của Bờ
Dưới đây là danh sách các Vương cung thánh đường của Giáo hội Công giáo La Mã. Đây là một danh hiệu tôn vinh đặc biệt mà các Giáo hoàng dành cho nhà thờ hoặc
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Đường Ý Tông Quách Thục phi** (chữ Hán: 唐懿宗郭淑妃; _không rõ năm sinh năm mất_) là một phi tần rất được sủng ái của Đường Ý Tông Lý Thôi trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Lý Hoàn** (chữ Hán: 李峘, ? – 763), tông thất, quan viên nhà Đường. ## Thân thế Ông cụ là Ngô vương Lý Khác – hoàng tử thứ ba của Đường Thái Tông. Ông nội
Nhà thờ Sacré-Cœur Paris **Vương cung thánh đường Sacré-Cœur** (tiếng Pháp: _Basilique du Sacré-Cœur_, còn gọi là _Nhà thờ Thánh Tâm_) là một nhà thờ Công giáo nổi tiếng của Paris. Nằm trên đỉnh đồi
**Vương cung thánh đường Nhà thờ ngoại hiệu Thánh Gia** (; ), thường được gọi **Sagrada Família**, là một nhà thờ Công giáo lớn đang xây tại Barcelona, Catalunya, Tây Ban Nha, được coi là
**Đường Lâm** (chữ Hán: 唐临, 600? – 659?), tên tự là **Bổn Đức**, tịch quán ở Trường An, Kinh Triệu , là quan viên nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Vương cung thánh đường Thánh Maria Madalena** (tiếng Pháp: _Basilique Sainte-Marie-Madeleine_) là một nhà thờ mà tiền thân là một tu viện dòng Biển Đức ở Vézelay thuộc tỉnh Yonne, Pháp. Đây là một trong
**Vương cung thánh đường Thánh Augustinô của Annaba** () là một nhà thờ chính tòa và vương cung thánh đường nằm tại Annaba, Algérie. Nó được thành lập để dành riêng cho Thánh Augustinô thành
**Lưu Phần** (chữ Hán: 刘蕡, ? – ?), tự **Khứ Hoa**, người Xương Bình, U Châu , danh sĩ ở giai đoạn trung kỳ đời Đường. ## Cuộc đời Phần ngụ cư ở khoảng Biện,
thumb|Bản đồ đế quốc Đường Dưới đây là **niên biểu của nhà Đường**, một thời kì kéo dài 289 năm, từ 618 khi vương triều thành lập, đến 907, khi vị hoàng đế cuối cùng
**Trương Lượng** (chữ Hán: 张亮, ? – 646), người Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp: gia nhập Ngõa Cương Lượng
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt
**Lý Khác** (chữ Hán: 李恪; 619 - 10 tháng 3, 653), thông gọi **Ngô vương Khác** (吴王恪), biểu tự **Khư** (厶), là một thân vương và tướng lĩnh thời nhà Đường. Ông là hoàng tử
**Vương Thực Phủ** (王實甫, ?-?), tên thực là Đức Tín (徳信) là nhà viết kịch Trung Quốc đời nhà Nguyên, không rõ năm sinh năm mất chỉ biết ông thọ đến khoảng 60 tuổi. Là
**Vương Cảnh Sùng** (chữ Hán: 王景崇, bính âm: Wang Jingchong, 847 - 883), thụy hiệu **Thường Sơn Trung Mục vương** (常山忠穆王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới triều đại nhà Đường trong lịch sử
**Vương Sĩ Chân** (chữ Hán: 王士真, bính âm: Wang Shizhen, 759 - 809), thụy hiệu **Thanh Hà Cảnh Tương vương** (清河景襄王), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Thư Hùng** (chữ Hán: 李忠; 643 - 665), biểu tự Bổn **Chính Quân** (正本), là Hoàng tử đầu tiên của Đường Cao Tông Lý Trị, và cũng trở thành người đầu tiên là Hoàng
**_Vương quốc thiên đường _**(tên gốc: **_Kingdom of Heaven_**) là một bộ phim sử thi sản xuất năm 2005, được đạo diễn và sản xuất bởi Ridley Scott và kịch bản được viết bởi William
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Vương Thúc Quý** (1862 – 1907), thường gọi là **Cử Vương**, là sĩ phu chống Pháp, từng tham gia phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục. ## Thân thế Vương Thúc Quý quê
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Vương cung thánh đường Chúa Giáng sinh của Đức Trinh nữ Maria ở Marianka** (tiếng Slovakia: _Bazilika Narodenia Panny Márie v Marianka_) là một tiểu vương cung thánh đường Công giáo La Mã tọa lạc
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung