✨Lý Cương (nhà Đường)

Lý Cương (nhà Đường)

Lý Cương (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự Văn Kỷ (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự và dạy dỗ 3 Hoàng thái tử của 2 triều đại Tùy, Đường; thế nhưng thật hi hữu khi tất cả họ đều không có kết cục tốt đẹp: 2 bị phế (Dương Dũng, Lý Thừa Càn) còn 1 bị giết (Lý Kiến Thành).

Tiểu sử

Ông người huyện Điều, Quan Châu (观州; nay là huyện Cảnh, địa cấp thị Hành Thủy, Hà Bắc). Ông nội là Lý Nguyên Tắc (李元则), làm đến Thanh Hà thái thú của nhà Tây Ngụy; cha là Lý Chế (李制), làm đến Xa kỵ tướng quân nhà Bắc Chu. Cương từ nhỏ khẳng khái lại có chí lớn, luôn lấy trung nghĩa tự răn mình. Ban đầu Cương có tên Lý Viện (李瑗), tự Tử Ngọc (子玉), sau đó nhân đọc Hậu Hán thư – Trương Cương truyện (ông cụ của Trương Dực), hâm mộ ông ta nên ông liền đổi tên.

Lý Cương được Tề vương Vũ Văn Hiến nhà Bắc Chu cho làm Tham quân; Tuyên đế sắp hại Hiến, đòi liêu thuộc của ông ta bịa ra tội chứng, Cương thề chết không viết. Đến khi Hiến bị hại, xe chở thây ra ngoài, bộ hạ đều tan rã, chỉ có Cương ôm áo quan khóc to, tự mình chôn cất, khóc vái rồi đi.

Làm quan đời Tùy

Cuối niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy, Cương làm Thái tử tẩy mã. Hoàng thái tử Dương Dũng từng nhân dịp năm mới đãi tiệc nhóm bề tôi trong cung, Tả thứ tử Đường Lệnh Tắc tự xin tấu tỳ bà, rồi ca một khúc "Vũ mỵ nương". Cương cho rằng Lệnh Tắc là bề tôi trong cung, chẳng những không làm gương tốt, mà còn ca một khúc dâm loạn, đòi trị tội ông ta; Dũng gạt đi, Cương bèn bỏ ra ngoài. Đến khi Dũng bị phế truất, Tùy Văn đế triệu quan thuộc của Đông cung để trách mắng, không ai dám đáp lại, chỉ có Cương thần thái hiên ngang, bước ra chỉ trích Văn đế sắp xếp nhân sự phù tá Thái tử không thỏa đáng, mới gây ra nông nỗi như vầy, khiến Văn đế phải nhận lỗi; Văn đế lấy làm lạ, cất nhắc ông làm Thượng thư hữu thừa.

Bấy giờ Tả bộc xạ Dương Tố, Tô Uy nắm quyền trong triều, Cương thường cố chấp ý kiến của mình, bất đồng với họ, do vậy ông bị 2 người ấy căm ghét. Gặp lúc triều đình sai Đại tướng quân Lưu Phương trấn áp Lâm Ấp, Tố lấy cớ Lâm ấp nhiều bảo vật, cần ủy thác cho người chính trực, nói Cương có thể đảm nhiệm; vì thế Văn đế lấy ông làm Hành quân tư mã. Phương nắm ý của Tố, nhiều lần làm nhục Cương, hãm hại ông đến mức gần chết. Đến khi quân đội trở về, Cương rất lâu không được điều đi nhận chức vụ khác; rồi được bái làm Tư mã của phủ Tề vương Dương Giản, chưa lâu thì ông bị Tô Uy lệnh phải đi Nam Hải đón tiếp sứ giả Lâm Ấp, rồi lại rất lâu không được triệu. Cương bèn về kinh trình tấu, bị Uy khép tội tự ý rời bỏ chức trách, giao cho pháp quan. Cương gặp người giỏi bói cỏ, đòi ông ta bói cho 1 quẻ, gặp được chữ Đỉnh; người ấy nói với ông: "Ngài đổi họ thì có thể làm đến tể tướng. Nếu không thì nên sớm lui đi, kẻo gặp vạ chặt chân." Sau đó Cương gặp dịp được xá miễn, bèn ẩn cư ở nhà.

Làm quan đời Đường

Thời Đường Cao Tổ

Cuối niên hiệu Đại Nghiệp thời Tùy Dượng đế, thủ lĩnh nghĩa quân Hà Phan Nhân ép Cương làm Trưởng sử. Quân đội của Lý Uyên vào Trường An, Cương đến yết kiến; Uyên cả mừng, cho ông thụ chức Thừa tướng phủ Ti lục, phong tước Tân Xương huyện công, chuyên trách tuyển chọn quan lại. Uyên lên ngôi, tức là Đường Cao Tổ, Cương được bái làm Lễ bộ thượng thư, kiêm Thái tử chiêm sự, coi việc tuyển chọn như cũ.

Trước đó, Tề vương Lý Nguyên Cát được thụ chức Tịnh Châu tổng quản, buông thả bộ hạ nhiễu nhương trăm họ, Vũ Văn Hâm nhiều lần can gián không được, bèn dâng biểu tố cáo, khiến Nguyên Cát bị miễn chức, nhưng Nguyên Cát lại giả cho phụ lão đến cửa khuyết cầu xin, nên được phục chức. Bấy giờ Lưu Vũ Chu tiến đánh Tịnh Châu, Nguyên Cát đối xử bất công khiến Xa kỵ tướng quân Trương Đạt bất bình làm phản, dẫn đường cho Vũ Chu chiếm được Du Thứ, uy hiếp Thái Nguyên; Nguyên Cát sợ hãi, nghe theo kiến nghị của Hâm, nhân đêm tối đem vợ con bỏ trốn về kinh sư, khiến Tịnh Châu thất thủ. Đường Cao Tổ nổi giận, lấy cớ Thái Nguyên là vùng đất căn bản của nhà Đường, đổ triệt trách nhiệm cho những viên tá quan của Nguyên Cát, đòi giết Hâm; Cương nói mát rằng nhờ Hâm mà Cao Tổ không mất con trai, phải tính có công mới đúng; Cao Tổ hỏi tại sao, Cương giải thích rằng tá quan của Nguyên Cát ngoài Hâm ra còn có con rể của Cao Tổ là Đậu Đản, Đản chẳng những không can ngăn Nguyên Cát mà còn bày cuộc vui cho hắn ta, Hâm là người dưng mà từng dâng biểu tố cáo Nguyên Cát với cha của hắn ta – chính là Cao Tổ – như thế là trung thần, còn làm gì hơn được nữa!? Cương kết luận Cao Tổ sẽ phạm sai lầm nếu giết Hâm. Ngày hôm sau, Cao Tổ thừa nhận với Cương rằng thất bại này là do Nguyên Cát tự gây ra, không truy cứu trách nhiệm của Hâm (nhưng cũng bỏ qua cho Đản).

Bấy giờ Cao Tổ bái vũ sư người Hồ là An Sất Nô làm Tán kỵ thường thị, Cương nằm trong số triều thần can gián, lấy cớ ca múa là nghề thấp kém, không thể cho phép làm quan; Cao Tổ không nghe. Sau đó Cương nhận lệnh tham gia biên soạn luật pháp.

Cương là quan viên thuộc Đông cung, ban đầu rất được Thái tử Lý Kiến Thành kính trọng. Kiến Thành từng đi tắm suối nước nóng, Cương lấy cớ có bệnh không cùng đi. Có người dâng cá tươi, Kiến Thành sai nhà bếp làm gỏi; bấy giờ Đường Kiệm, Triệu Nguyên Giai ngồi đấy, đều nói mình có thể làm được, Kiến Thành đồng ý. Sau khi ăn xong, Kiến Thành nói: "Khua đao làm gỏi, điều hòa mùi vị, các ông làm được; nhưng nói đến phù tá (và) khai sáng, phải nhờ vào Lý Cương vậy." Vì thế sai sứ gởi cho Cương 200 xúc lụa làm quà.

Nhưng về sau nổ ra cuộc tranh chấp giữa Thái tử Lý Kiến Thành và Tần vương Lý Thế Dân, Cương vốn ngay thẳng, không giỏi quyền mưu, không muốn tham gia bè cánh, lại nhớ quẻ bói ngày trước, nên nhiều lần xin nghỉ hưu. Đường Cao Tổ mắng rằng: "Khanh làm trưởng sử của Phan Nhân, sao lại xấu hổ vì làm thượng thư của trẫm?". Cương dập đầu trình bày rằng khi xưa Hà Phan Nhân là giặc, mình làm trưởng sử cho hắn ta đã cứu sống rất nhiều người, nên không hề hổ thẹn, nhưng chẳng đóng góp gì vào công cuộc mở nước của Cao Tổ, tài năng kém cỏi, làm sao dám ngồi mãi ở chức thượng thư!? Cao Tổ vỗ về Cương, bái ông làm Thái tử thiếu bảo, Thượng thư, kiêm Chiêm sự như cũ.

Rốt cục, Cương vẫn không muốn can dự vào cuộc tranh ngôi đoạt vị, đến năm Vũ Đức thứ 2 (619), lấy cớ già yếu để xin từ chức, Cao Tổ giáng chiếu vỗ về, cho cởi chức thượng thư, nhưng vẫn làm Thái tử thiếu bảo. Cao Tổ cho rằng Cương là danh thần của nhà Tùy, đối đãi trọng thể, tự tay làm sắc mà còn không gọi tên ông.

Thời Đường Thái Tông

Năm Trinh Quan thứ 4 (630), Cương được bái làm Thái tử thiếu sư. Khi ấy Cương bị đau chân, không thể mang giày, được Đường Thái Tông riêng ban xe lăn, cho phép ông cởi xe đi đến khắp nơi trong hoàng thành, kể cả cung cấm. Cương nhiều lần được Đường Thái Tông đưa vào cung, hỏi han chánh sự; lại được gọi vào Đông cung, được Thái tử Lý Thừa Càn dìu lên điện rồi lạy chào. Cương trình bày mọi vấn đề, từ đạo làm vua tôi, cha con cho đến phương pháp chăm sóc cha mẹ, ý xuôi lời thẳng, khiến người nghe quên nghỉ. Mỗi khi Thái tử tham gia chánh sự, Thái Tông ắt lệnh cho Cương với Tả bộc xạ Phòng Huyền Linh, Thị trung Vương Khuê ngồi hầu. Thái tử từng bàn luận về các tấm gương tận trung trọn tiết của vua tôi xưa nay, Cương lẫm liệt nói: "Gởi con côi 6 thước, truyền mệnh lệnh trăm dặm, người xưa cho là khó, Cương cho là dễ.". Cương hễ bàn bạc hay phát ngôn, đều dùng lời lẽ khẳng khái, bộc lộ chí khí không thể khuất phục.

Cương phát bệnh, được Thái Tông sai Thượng thư Tả bộc xạ Phòng Huyền Linh đến nhà thăm hỏi, ban 200 xúc lụa. Năm thứ 5 (631), mất, hưởng thọ 85 tuổi; được Khai phủ nghi đồng tam tư, thụy là Trinh; được Thái tử Lý Thừa Càn lập bia.

Khi xưa, con gái của Tề vương Vũ Văn Hiến nhà Bắc Chu ở góa, Cương tự lấy thân phận thuộc cấp cũ của Tề vương, chu cấp cho cô ta rất hậu. Đến nay Cương mất, cô ta kêu khóc như tang cha mẹ của mình.

Hậu nhân

  • Con là Lý Thiếu Thực, làm Đồng công thư tá của quận Vũ Dương, mất trước Cương. Con Thiếu Thực là Lý An Nhân, trong niên hiệu Vĩnh Huy thời Đường Cao Tông làm Thái tử tả thứ tử. Đến khi Thái tử Lý Trung bị phế, buộc phải rời Đông cung, liêu thuộc đều trốn tránh, không dám đưa tiễn, một mình An Nhân vào gặp, chảy nước từ biệt rồi đi, được mọi người khen là có nghĩa. Về sau An Nhân mất ở chức Hằng Châu thứ sử. Một cháu nội khác của Cương là Lý An Tĩnh. Năm Thiên Thụ đầu tiên nhà Vũ Chu, An Tĩnh đang ở chức Hữu vệ tướng quân, quần thần đều khuyên Võ hậu lên ngôi hoàng đế, một mình không nói gì. Đến khi bị bắt vào ngục, chịu sự tra hỏi của Lai Tuấn Thần, ông nói: "Chính vì ta là bề tôi của nhà Đường, nên đáng bị giết. Còn hỏi tội trạng, ta làm gì chứ?" An Tĩnh bị Tuấn Thần vu cáo rồi giết chết. Trong niên hiệu Hội Xương thời Đường Vũ Tông, triều đình tìm kiếm hậu nhân của trung thần, xét con cháu của họ Lý không còn, bèn tặng An Tĩnh làm Thái tử thiếu sư.

Sử cũ chép: bởi gia đình của Cương 5 đời sống cùng một nhà, An Nhân, An Tĩnh đều nhờ có nghĩa mà nổi tiếng, nên được người đời khen là họ Lý chẳng suy.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Lý Mậu** (chữ Hán: 李茂, ? – ?), tông thất nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Hoàng tộc nhà Đường tự nhận có tổ tịch ở Lũng Tây (nay thuộc Cam
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, ? – 1478), tự Đình Trương, người Trường Thanh, Sơn Đông, quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Cương từ nhỏ theo cha vào Kinh đô, ngã xuống xe, bị
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Trương Lượng** (chữ Hán: 张亮, ? – 646), người Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp: gia nhập Ngõa Cương Lượng
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Lý Cương** (, 1083 - 1140), tên tự là **Bá Kỷ**, người Thiệu Vũ quân, tể tướng nhà Tống, lãnh tụ phái kháng Kim, anh hùng dân tộc Trung Quốc. Cùng với Nhạc Phi, Triệu
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Lý Cường** (tiếng Trung giản thể: 李强; bính âm Hán ngữ: _Lǐ Qiáng_; sinh ngày 23 tháng 7 năm 1959, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện
**Dương Thành** (chữ Hán: 阳城, 736 – 805), tự **Kháng Tông**, nguyên quán là huyện Bắc Bình, Định Châu , sinh quán là huyện Hạ, Thiểm Châu , ẩn sĩ, quan viên trung kỳ đời
**Ariq Qaya** (chữ Hán: 阿里海牙; 1227-1286) phiên âm Hán - Việt: **A Lý Hải Nha**, còn phiên thành **A Lạt Hải Nha**, **A Lực Hải Nha** hoặc **A Nhĩ Cáp Nhã**, là viên tướng lĩnh
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Lý Mật** (; 582 – 619), biểu tự **Huyền Thúy** (玄邃), lại có tự **Pháp Chủ** (法主), là một thủ lĩnh nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy. Ban đầu, ông là
**Lý Thế Tích** (李世勣) (594 – 1 tháng 1 năm 670), nguyên danh **Từ Thế Tích** (徐世勣), dưới thời Đường Cao Tông được gọi là **Lý Tích** (李勣), tên tự **Mậu Công** (懋功), thụy hiệu
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Lý Kiến Thành** (chữ Hán: 李建成, 589 – 2 tháng 7, năm 626), biểu tự **Tỳ Sa Môn** (毗沙門), là một Thái tử nhà Đường. Ông là con trưởng của hoàng đế khai quốc Đường
**Lý Thừa Càn** (chữ Hán: 李承乾; 619 - 5 tháng 1, năm 645), tự **Cao Minh** (高明), thụy hiệu là **Thường Sơn Mẫn vương** (恆山愍王), con trai trưởng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Lý Thạnh** (chữ Hán: 李晟, 727 – 793), tên tự là **Lương Khí**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
**Lý Tố** (chữ Hán: 李愬, 773 – 821), tên tự là **Nguyên Trực**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
**Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất** nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là
**Lý Hạ** (chữ Hán: 李贺; 790/791 – 816/817) là một nhà thơ sống vào thời Trung Đường. Ông có tên tự là **Trường Cát**, còn có các biệt hiệu **Thi Quỷ** và **Quỷ Tài**. Lý
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Dương Hành Mật** (, 852 – 24 tháng 12 năm 905), nguyên danh **Dương Hành Mẫn** (楊行愍, đổi tên năm 886), tên tự **Hóa Nguyên** (化源) là người giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Lý Thương Ẩn** (chữ Hán: 李商隱; 813 - 858) biểu tự **Nghĩa Sơn** (義山), hiệu **Ngọc Khê sinh** (玉谿生), **Phiền Nam sinh** (樊南生) là một trong những nhà thơ lớn nhất của văn học Trung
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường
**Lý Quang Bật** (chữ Hán: 李光弼; 708-15/8/764) là danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn An Sử, trung hưng nhà Đường. ## Thân thế Lý Quang Bật là
**Lý Hiếu Cung** (chữ Hán: 李孝恭; 591 – 640), là một thân vương và tướng lĩnh nhà Đường. Ông là cháu họ của Đường Cao Tổ Lý Uyên và có công tiêu diệt các thế
**Lý Phụ Quốc** (李輔國; 704 – 8 tháng 11, 762), nguyên danh **Lý Tính Trung** (李靜忠), giai đoạn 757 - 758 lấy tên là **Lý Hộ Quốc** (李護國), thụy hiệu **Bác Lục Xú vương** (博陸醜王),
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Vụ tai nạn Lý Cương** hay **vụ "Ba tao là Lý Cương"** (tiếng Trung: "我爸是李刚"事件) là một sự kiện phát sinh từ tai nạn giao thông xảy ra vào tối 16 tháng 10 năm 2010,
**Lý Bảo Thần** (chữ Hán: 李寶臣, 718 - tháng 6 năm 781), nguyên quán ở Phạm Dương, tên thật là **Trương Trung Chí** (張忠誌), còn gọi là **Trương Bảo Thần** (張寶臣) hay **An Trung Chí**
**Lý Hi Liệt** (chữ Hán: 李希烈, bính âm: Li Xilie, 9 tháng 5 năm 786), hay **Đổng Hi Liệt** (董希烈), là Tiết độ sứ Hoài Tây dưới thời đại nhà Đường trong lịch sử Trung