✨Lý Hạ

Lý Hạ

Lý Hạ (chữ Hán: 李贺; 790/791 – 816/817) là một nhà thơ sống vào thời Trung Đường. Ông có tên tự là Trường Cát, còn có các biệt hiệu Thi QuỷQuỷ Tài. Lý Hạ bị cấm tham gia khoa cử vì phạm vào tội húy kỵ. Ông qua đời khi tuổi còn rất trẻ và được miêu tả là có ngoại hình ốm yếu. Lý là một nhà thơ rất chuyên cần, ông thường đi du ngoạn vào ban ngày và mỗi khi nảy ra một câu thơ, ông ghi lại nó và hoàn tất bài thơ lúc ông đặt chân về nhà vào buổi tối. Những tác phẩm của ông nổi tiếng là khai thác về đề tài kỳ quái, ma quỷ và siêu nhiên.

Danh tiếng và tên tuổi của Lý Hạ trong nền văn học Trung Quốc đã được lưu truyền suốt nhiều thế kỷ. Vào thời nhà Thanh, các hậu bối tại Trung Quốc đã học theo phong cách thơ có một không hai của ông. Dưới triều Thanh, danh tiếng làm thơ của ông đã vấp phải thay đổi lớn trong thị hiếu văn học khi những tác phẩm của ông bị lược khỏi cuốn Đường thi tam bách thủ nổi tiếng, tuy nhiên những người yêu thơ dần tái chú ý đến ông trong thế kỉ 20. Lý Hạ là một trong số những nhà thơ Đường được Mao Trạch Đông ngưỡng mộ nhất.

Cuộc đời

Tư liệu

Chương 137 trong cuốn Cựu Đường thư và chương 203 trong cuốn Tân Đường thư đều ghi chép ngắn gọn, vắn tắt về cuộc đời của Lý Hạ. Một nhà thơ đương thời là Lý Thương Ẩn cũng viết một cuốn tiểu sử mang tên Lý Hạ tiểu truyện (). Năm 831, thi sĩ Đỗ Mục viết lời tựa cho tập thơ của Lý Hạ có nhan đề Lý Hạ tập tự (, với nội dung bị lược bỏ nhiều hơn so với tác phẩm của Lý Thương Ẩn, nhưng đem đến rất ít thông tin về tiểu sử mà chủ yếu khai thác sâu vào sức hấp dẫn trong thơ của Lý. Tất cả những bản chép sử chính thức đều chịu ảnh hưởng lớn từ hai tác phẩm kể trên, trong đó đặc biệt là bản chép của Lý Thương Ẩn.

Xuất thân

Gia đình của Lý Hạ có dòng dõi hoàng tộc từ lâu đời (họ Lý là gia tộc cai trị đất nước dưới triều Đường), nhưng gia tài của nhánh tộc Lý Hạ vốn đã bị suy vi từ sớm, do đó vào thời của thi sĩ này họ chỉ đứng ở cấp bậc thấp. Cả hai bộ quốc sử triều Đường thường xem ông là "hậu duệ của Trịnh Vương", nhưng lại nảy ra tranh cãi về danh tính của Trịnh Vương. Một vài học giả ủng hộ giả thuyết rằng gốc gác của Lý có liên quan đến Lý Lượng (sống dưới thời nhà Tùy) là một người chú của Lý Uyên, hoàng đế nhà Đường đầu tiên. Có giả thuyết khác cho rằng dòng dõi của vị thi sĩ có liên hệ tới Lý Nguyên Ý, con trai thứ 13 của Lý Uyên.

Những năm đầu đời

Lý Hạ sinh vào năm 790 hoặc 791. Dường như Lý chào đời vào năm Ngọ, vì 23 trong số các bài thơ còn sót lại của ông đều dùng con ngựa làm biểu tượng cho ông. Ông là người gốc huyện Phúc Xương, tức phía Tây huyện Nghi Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay. Lý bắt đầu sáng tác thơ từ năm 7 tuổi, đến năm 15 tuổi ông được đem so sánh với danh sĩ nhạc phủ Lý Ích.

Sự nghiệp chính trị

Năm 20 tuổi, Lý Hạ cố gắng tham gia khoa cử, nhưng rồi bị cấm thi vì phạm vào húy kỵ: tên cha ông, Lý Tấn Túc có từ "Tấn" đồng âm với từ "Tiến" trong Tiến sĩ, chức vị ông sẽ được sắc phong nếu đỗ đạt. Cuốn học thuật Ueki et al. (1999) suy đoán rằng đây là một cái cớ mà các đối thủ của Lý – những kẻ đố kị với tài năng thi ca của ông bày ra, nhằm ngăn vị thi sĩ dự thi. Một danh sĩ nổi tiếng đương thời là Hàn Dũ vì mến tài ông mà viết bài Húy biện (諱弁) để dâng lên nhưng vẫn không thể giúp Lý dự thi. Thế là ông chỉ giữ chức quan nhỏ Phụng lễ lang (奉禮郎; trông coi về nghi lễ) trong 3 năm trước khi từ quan về quê nhà.

Bệnh tật và qua đời

Lý Hạ được miêu tả là một người có ngoại hình rất ốm yếu, với thân hình mảnh khảnh, đôi lông mày liền nhau và để móng tay dài. Lý trút hơi thở cuối cùng lúc đang giữ một chức quan nhỏ và gia cảnh nghèo khó vào năm 816 hoặc 817, thọ 26 hoặc 27 tuổi. Cuốn Lý Hạ tiểu truyện kể rằng vào canh giờ mà Lý qua đời, ông được một nhân vật mặc áo lụa đào ghé thăm; người này nói với vị thi sĩ rằng Thượng đế đã cho gọi ông lên thiên đàng để làm thơ.

Các tên gọi

Tên tự của Lý Hạ là Trường Cát, đôi khi ông còn được gọi với cái tên ghép từ họ và tên tự là Lý Trường Cát. Người đời cũng mệnh danh ông là Quỷ Tài (鬼才), với lối làm thơ đối lập với Thiên Tài (天才) Lý Bạch và Nhân Tài (人才) Bạch Cư Dị. Biệt hiệu này do học giả thời nhà Tống Tiền Dị (錢易) đặt cho Lý Hạ trong tác phẩm Nam bộ tân thư (南部新書). Vị thi sĩ cũng được mệnh danh là "Thi Quỷ" (詩鬼), trong khi Lý Bạch được gọi là "Thi Tiên" (詩仙) còn Đỗ Phủ là "Thi Thánh" (詩聖).

Thơ

thumb|upright|Ảnh cuốn Lý Hạ ca thi thiên. Trong lịch sử văn học, Lý Hạ thường được xem là một nhà thơ thuộc kỷ nguyên Trung Đường, kéo dài từ cuối thế kỉ 8 đến đầu thế kỉ 9. Những nguồn ảnh hưởng lên lối sáng tác của Lý có thể kể đến danh sĩ tiền bối đương thời Mạnh Giao và Hàn Dũ. Lối làm thơ của Lý Hạ cũng được xem là chịu ảnh hưởng từ các yếu tố shaman của Sở Từ và phong cách bình dị của Lý Bạch.

Cho đến nay khoảng 240 bài thơ của Lý Hạ còn sót lại. Cuốn Tân Đường thư cho biết có rất ít bài thơ của Lý được lưu trữ bởi những sáng tác đó đều mang màu sắc độc lạ cũng như do Lý mất sớm. Giai thoại trong cuốn Thái bình quảng ký (太平广记) kể rằng một người anh họ của Lý được vị thi sĩ đề nghị biên soạn một tập thơ cho ông, nhưng vì người này không ưa Lý nên đã bí mật vứt hết đống thơ đó đi.

Ngày nay có hai tập thơ của Lý Hạ còn sót lại, đó là Lý Hạ ca thi thiên () và Ngoại tập (). Lý Hạ tiểu truyện miêu tả Lý là một nhà thơ chuyên cần. Ông luôn xách bên mình chiếc túi gấm cũ để mỗi khi nảy ra một ý thơ trên đường du ngoạn, ông liền ghi chép lại nó và bỏ vào trong túi. Sau khi trở về nhà, ông sắp xếp các câu thơ đã viết thành một bài thơ hoàn chỉnh.

Những tác phẩm của Lý Hạ luôn độc nhất vô nhị với màu sắc kỳ dị và khác thường, do đó ông mới được gắn cho cái nghệ danh Thi Quỷ. Hầu như không có bài thơ nào của Lý được viết theo lối cận thể (近體詩), bên cạnh đó những sáng tác của ông thường xuyên dùng những từ mang điểm gở như "lão" () và "tử" (). Trong những bài thơ như "Thiên thượng dao" (天上謠) và "Mộng Thiên" (xem bên dưới), ông viết theo lối gợi lên thế giới của thượng đế và Đức Phật.

Ngòi bút của Lý Hạ cũng mang đến những nét miêu tả kỳ lạ về thế giới ma quỷ trong các bài thơ "Thu lai" (秋来) và "Thần huyền khúc" (神弦曲). Bút pháp tượng trưng tâm linh mà Lý dùng trong các bài thơ sau này còn khiến cho nhiều độc giả "khó có thể lĩnh hội" được. "Thần huyền khúc" là tên của một ca khúc dân gian nổi tiếng, xuất hiện sớm nhất vào thời Lục triều và Lý đã vay mượn tên của ca khúc này cho thơ của ông. Ca khúc có xuất xứ tại ở vùng Nam Kinh, là một bài ca lễ nghi dùng trong các buổi lễ tôn giáo để mời gọi các vị thần linh. Thơ của Lý miêu tả thế giới siêu nhiên nhưng không giống với nội dung trong nguyên tác dân gian. Ông thường xuyên kết hợp những hình tượng màu sắc và cảm quan trong thơ của mình, chẳng hạn như trong hai bài "Thiên thượng dao" và "Tần vương ẩm tửu" (xem bên dưới).

Phong cách làm thơ của Lý Hạ được mệnh danh là Trường Cát thể () bởi các nhà phê bình sau này, đặt theo tên tự của ông. Học giả đời Tống Nghiêm Vũ (严羽) liệt Trường Cát thể là một trong những lối sáng tác tự sự thường xuyên được bắt chước.

Đón nhận

Một số phê bình gia phương Tây và Nhật Bản đương đại như A. C. Graham, Naotarō Kudō và J. D. Frodsham đều nhất trí rằng thơ của Lý Hạ không có nhiều người đón đọc rộng rãi cho đến thời hiện đại, tuy nhiên quan điểm này không hoàn toàn chính xác. Trong cuộc khảo sát năm 1994, học giả Ngô Khải Minh cho biết vào thời Trung Quốc tiền hiện đại, Lý Hạ là nhà thơ thường được bắt chước nhiều hơn là bị thờ ơ.

Thời nhà Đường và Tống

Hai nhà thơ đương thời với Lý Hạ là Đỗ Mục và Lý Thương Ẩn đều tri ân vị danh sĩ trong những tác phẩm văn xuôi của họ; trong khi Đỗ viết lời tựa cho tập thơ của Lý thì Thương Ẩn viết hẳn một cuốn tiểu sử về Lý Hạ. Riêng lời tựa do Đỗ Mục viết có vai trò như bằng chứng cho thấy thơ của Lý được soạn và chỉnh sửa trong vài thập kỷ sau khi ông qua đời; chúng giống như bằng chứng về những văn bản lưu hành nội bộ trước thời điểm Đỗ Mục viết lời tựa vào năm 831. Thi sĩ đời Đường Bì Nhật Hưu (皮日休) cũng đề cập đến thơ của Lý Hạ cùng với thơ của Lý Bạch trong tác phẩm phê bình văn học "Lưu tảo cường bi" (). Lý Hạ còn nằm trong nhóm những nhà thơ Đường thường được trích dẫn làm ca từ bởi những nhạc sĩ đời Tống như Chu Bang Ngạn (周邦彥; 1056–1121). Trong cuốn Thương lãng thi thoại (滄浪詩話), Nghiêm Vũ đã đem Lý Hạ so sánh với tiền bối Lý Bạch. Những bản chép thơ cổ nhất còn lại của Lý Hạ được sưu tầm và chú giải vào thời Nam Tống.

Thời nhà Nguyên và Minh

Nhiều thi sĩ triều Nguyên đã bắt chước lối sáng tác của Lý Hạ, có thể kể đến những cái tên như Thành Đình Khuê (成廷珪), Dương Duy Trinh (楊維楨) và Cố Anh (顧瑛) cũng như nhà thơ đầu triều Minh Cao Khởi (高启). Học giả đời Minh Hồ Ứng Lân nhận xét thơ của Lý về mặt chính trị là "màu sắc của một quốc gia bị suy tàn", đồng thời nhận ra rằng phong cách thơ của Lý đặc biệt giàu ảnh hưởng trong những năm cuối của nhiều triều đại.

Thời nhà Thanh

Thơ của Lý Hạ bỗng chốc trở nên phổ biến từ cuối triều Minh đến giữa triều Thanh. Một lượng lớn tập thơ của Lý có kèm chú thích xuất hiện trong giai đoạn này, từ đó thơ của ông được nhiều người bắt chước. Học giả Vương Kỳ (王琦) đã viết một bài luận dài tới 5 tập để bàn về thơ của Lý. Dù thịnh hành vào giữa triều Thanh, nhưng một bộ phận các văn sĩ có tiếng nói lại không ưa chuộng thơ của Lý Hạ. Nhà soạn thơ Trần Đức Tiềm (沈德潜) đã chọn ra 10 bài thơ của Lý Hạ để cho vào cuốn sách nổi tiếng Đường thi biệt tài tập (唐诗别裁集). Trần đã bị chỉ trích dữ dội vì bắt chước lối làm thơ của Lý. Thơ của Lý Hạ cũng vắng mặt trong cuốn Đường thi tam bách thủ, một ấn phẩm về thẩm mỹ văn học ra đời vào cuối triều Thanh và đầu thế kỉ 20.

Thời hiện đại

Bên cạnh Lý Bạch và Lý Thương Ẩn, Lý Hạ là một trong "Tam Lý" (三李) mà chính khách Mao Trạch Đông ngưỡng mộ. Năm 1968, nhạc sĩ Roger Waters của ban nhạc rock Pink Floyd đã vay mượn những câu thơ của Lý để sáng tác ca từ cho bài hát "Set the Controls for the Heart of the Sun". Viết về Lý Hạ trong cuốn Chūgoku Bunkashi Daijiten, Hán học giả người Nhật Fukazawa Kazuyuki ví vị thi sĩ như "nhà thơ tiêu biểu của thời Trung Đường".

Theo nhà Hán học người Pháp François Jullien, thơ của Lý Hạ được tái thừa nhận vào hàng ngũ danh tác kinh điển của văn học Trung Quốc "vào cuối thể kỉ 19... [khi mà]... những quan niệm về bút pháp lãng mạn của phương Tây [cho phép] người Hoa tái thẩm định lại nhà thơ này, cho phép bút pháp tượng trưng trong thơ của ông được lên tiếng, giải phóng thế giới tưởng tượng của ông khỏi những cuộc truy tìm ẩn ý chẳng bao giờ kết thúc". Trong chương viết về Thơ Đường trong cuốn The Columbia History of Chinese Literature, Paul W. Kroll gọi Lý là "nhà thơ Đường lập dị nhất, có lẽ là trong toàn bộ nền thi ca Hoa ngữ" và mệnh danh ông là "Mallarmé của Trung Quốc" bởi lối làm thơ và cách sử dụng hình ảnh vô cùng khó hiểu của thi sĩ này.

Tại Việt Nam, rất ít người biết đến thơ của Lý Hạ, kể cả trong giới nghiên cứu văn học, nên chỉ có một lượng ít ỏi các tài liệu dịch thuật và nghiên cứu ông bằng tiếng Việt. Mặc dù vậy, thơ của ông tiếp cận giới nghiên cứu văn học Việt từ khá sớm, cụ thể là vào thập niên 60 của thế kỷ 20, khi các học giả Việt dịch bộ Lịch sử văn học Trung Quốc của Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc. Trong cuốn Lịch sử văn học Trung Quốc tập 2, dịch giả-giáo sư Nguyễn Khắc Phi nhận xét: "... Kỳ lạ, phóng túng, tươi đẹp buồn thương, cố tâm theo đuổi cái mới lạ khiến cho thơ ca của ông tuyệt nhiên khác thường". Năm 1995, trong cuốn Diện mạo thơ Đường, tác giả Lê Đức Niệm nhận định: "Lý Hạ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn. Những tác phẩm của ông đều có ký thác tâm sự cá nhân, nhưng cũng có nhiều nét của cuộc sống hiện thực, dùng bút pháp tượng trưng để gửi gắm lý tưởng và nỗi u sầu". Trong khi đó học giả Nguyễn Tôn Nhan trong cuốn Thơ siêu thực của Lý Hạ (2000) viết: "Thơ ông thích miêu tả cảnh giới siêu hiện thực với ảo giác thần kỳ quái đản... Nhiều bài thơ có sắc thái nồng diễm, lạnh lẽo, thê lương, chữ dùng lại tân kỳ, mới lạ".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Hạ** (chữ Hán: 李贺; 790/791 – 816/817) là một nhà thơ sống vào thời Trung Đường. Ông có tên tự là **Trường Cát**, còn có các biệt hiệu **Thi Quỷ** và **Quỷ Tài**. Lý
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Hải ly** (chi **_Castor_**) là một loài động vật có vú chủ yếu sống về đêm và là loài sống nửa cạn nửa nước thuộc Họ Hải ly, Bộ Gặm nhấm. Có hai loài còn
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
Công Ty TNHH Đầu Tư Hạ Tầng Viễn Thông Sao Mai là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng và quản lý hạ tầng viễn thông tại Việt Nam. Được
**Quản lý** là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động
**Lý Dịch Phong** (giản thể: 李易峰, bính âm: Li Yi Feng, tên khai sinh **Lý Hạ**, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1987) là nam diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc được biết đến
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**Phủ Lý** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hà Nam cũ, Việt Nam, nay là phường Phủ Lý thuộc tỉnh Ninh Bình. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Thành phố Phủ
**Lý Bạch** (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự **Thái Bạch** (太白), hiệu **Thanh Liên cư sĩ** (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường
**Hạ Kiệt** (chữ Hán: 夏桀), tên **Lý Quý** (履癸), là vị vua thứ 17 và cuối cùng nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Ông được truyền thống coi như một bạo chúa và là
**Hạ thân nhiệt** hay **giảm thân nhiệt** được định nghĩa là nhiệt độ cơ thể dưới ở người. Các triệu chứng phụ thuộc vào nhiệt độ. Trong hạ thân nhiệt nhẹ có diễn ra run
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ** (Tiếng Trung Quốc: **宁夏回族自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Níng Xià Huízú Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Ninh Hạ Hồi tộc tự trị
**Địa lý châu Á** được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển
**Cao Ly Thành Tông** (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
Bản đồ khí hậu đơn giản hoá của châu Phi: Hạ Saharan gồm vùng [[Sahel và Sừng châu Phi khô cằn ở phía bắc (màu vàng), các savanna nhiệt đới (lục sáng) và các rừng
**Hạ Lang** là một huyện biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hạ Lang nằm ở phía đông của tỉnh Cao Bằng, nằm trên tỉnh lộ 207 và Quốc lộ
**Hạ Long** (trước năm 1994 là thị xã **Hồng Gai**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Thành phố được đặt theo tên của vịnh Hạ Long, vịnh biển nằm
**Tây Hạ Cảnh Tông** (chữ Hán: 西夏景宗; 7 tháng 6, 1003-9 tháng 1, 1048), tên thật là **Thác Bạt Nguyên Hạo** (拓跋元昊), sau lấy quốc tính của nhà Đường thành **Lý Nguyên Hạo** (李元昊) và
**Quản lý tài sản**, được định nghĩa rộng, đề cập đến bất kỳ hệ thống nào giám sát và duy trì những thứ có giá trị cho một thực thể hoặc một nhóm. Nó có
**Vịnh Hạ Long** là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo của thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng
**Lý Thuấn Thần** (Hanja: , Hangul: 이순신, Romanja: **Yi Sun-sin**, 8 tháng 3 năm 1545 – 19 tháng 11 năm 1598) là nhà quân sự, đô đốc thủy quân, danh tướng kháng Nhật của nhà
border|right **Văn hóa Nhị Lý Đầu** () là tên gọi được các nhà khảo cổ học đặt cho một xã hội đô thị đầu thời đại đồ đồng có niên đại xấp xỉ từ 1900
**Lý Quang Địa** (; 29 tháng 9 năm 1642 – 26 tháng 6 năm 1718) là một nhà chính trị, nhà lý học trứ danh thời kỳ đầu nhà Thanh. Mặc dù Lý Quang Địa
**The Dragon Castle Hạ Long** là tổ hợp căn hộ - nhà thương mại (shop house) – penthouse tại Quảng Ninh, được đầu tư và phát triển bởi N.H.O Quảng Ninh, một chủ đầu tư
nhỏ|[[Nguyên tử heli chứa 2 proton (đỏ), 2 neutron (lục) và 2 electron (vàng).]] Trong khoa học vật lý, các **hạt hạ nguyên tử** (tiếng Anh: _subatomic particle_) là các hạt nhỏ hơn nhiều lần
**Hạ viện Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States House of Representatives, thường được gọi là: United States House_), còn gọi là **Viện Dân biểu Hoa Kỳ**, là một trong hai viện của Quốc hội Hoa
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Tây Hạ Sùng Tông** (1083-1139), tên thật **Lý Càn Thuận**, là vị hoàng đế thứ tư của triều đại Tây Hạ, trị vì từ năm 1086 tới năm 1139. ## Tiểu sử Lý Càn Thuận
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Cái Tàu Hạ** là thị trấn huyện lỵ cũ thuộc huyện Châu Thành cũ, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. ## Địa lý Thị trấn Cái Tàu Hạ nằm ở phía đông huyện Châu Thành, cách
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
**Lý Mục** (chữ Hán: 李穆, 510 – 586), tự Hiển Khánh, sanh quán là trấn Cao Bình , tướng lãnh Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều và nhà Tùy. ## Thời Tây
**Vịnh Lan Hạ** là một vịnh ven bờ biển đảo Cát Bà thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. ## Địa lý Vịnh cách trung tâm thành phố khoảng 30 km. Vịnh nằm ở phía Đông
**Lý Nghĩa Mẫn** () là tể tướng nước Cao Ly dưới triều vua Minh Tông (1170 – 1179). Lý Nghĩa Mẫn là một trong các võ quan chi phối chính quyền Cao Ly giai đoạn
**Lý Dương Côn** (chữ Hán: 李陽焜, Hangul: 이양혼, _Yi Yanggon_; ?-?), tự **Nguyên Minh**, là một hoàng thân nhà Lý Việt Nam, lưu vong đến Cao Ly khoảng đầu thế kỷ XII, lập nên dòng
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
**Lý Viễn** (chữ Hán: 李远, 507 – 557), tên tự là **Vạn Tuế**, sinh quán tại trấn Cao Bình, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu cuối thời Nam Bắc triều. Ông rất
**Chiến tranh Đường – Cao Câu Ly lần thứ nhất** nổ ra khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chiến dịch xâm lược Cao Câu Ly quy mô lớn với lý do là
**Hạ Thương Chu đoạn đại công trình** () - _Dự án xác định niên đại Hạ Thương Chu_ -là một dự án đa ngành, kết hợp giữa các bộ môn khoa học tự nhiên với
#đổi Đại Lý (thành phố cấp huyện) **Đại Lý** (tiếng Trung: 大理; bính âm: Dàlĭ; tiếng Bạch: Darl•lit; tiếng Hà Nhì: Dafli) là một huyện cấp thị tại Châu tự trị dân tộc Bạch Đại
Một góc Hạ Môn Vị trí Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến **Hạ Môn** (chữ Hán giản thể: 厦门; chữ Hán phồn thể: 廈門; pinyin: _Xiàmén_; Wade-Giles: _Hsiamen_) là thành phố phó tỉnh ven biển
**Tây Hạ Thần Tông** (chữ Hán: 西夏神宗; 1163-1226), tên thật là **Lý Tuân Húc** (李遵頊), là vị hoàng đế thứ tám của triều đại Tây Hạ, trị vì từ năm 1211 đến năm 1223.. Tuân
**Tây Hạ Tương Tông** (chữ Hán: 西夏襄宗; 1170-1211), tên thật là **Lý An Toàn** (李安全), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại Tây Hạ, trị vì từ năm 1206 đến năm 1211. Tương