Tây Hạ Cảnh Tông (chữ Hán: 西夏景宗; 7 tháng 6, 1003-9 tháng 1, 1048), tên thật là Thác Bạt Nguyên Hạo (拓跋元昊), sau lấy quốc tính của nhà Đường thành Lý Nguyên Hạo (李元昊) và nhà Tống thành Triệu Nguyên Hạo (赵元昊),, sau đổi tên thành Ngôi Danh Nãng Tiêu (嵬名曩霄) hay Ngôi Danh Nãng Ninh (嵬名曩甯) là vị Hoàng đế khai quốc của triều đại Tây Hạ trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1032 đến năm 1048.
Xuất thân và khởi nghiệp
Lý Nguyên Hạo, có tài liệu chép là tên chữ Hán là Lý Nguyên Mân, tên Đảng Hạng là Thác Bạt Nang Tiểu, là con trai của Lý Đức Minh - thủ lĩnh của tộc Đảng Hạng. Mẹ ông có tên là Vệ Mộ, họ là Mộ Dung (Mộ Dung là dòng họ lập ra nước Nam Yên (398-410) thời Ngũ Hồ thập lục quốc). Từ nhỏ, ông là một cậu bé thông minh, ham học, thích nghiên cứu những điều lý thú trong thiên nhiên. Nhờ sự học hành giỏi giang đó, khi lớn lên, Lý Nguyên Hạo là một người có học thức uyên bác. Ông lại thông giỏi 2 thứ tiếng: tiếng Tây Tạng và tiếng Trung (chữ Hán). Ngay từ tuổi thiếu thời đến khi trưởng thành, ngoài việc học hành, Nguyên Hạo còn được huấn luyện trở thành một nhà chiến lược quân sự xuất chúng.
Năm 1028, theo lệnh của cha ông thống lãnh quân Đảng Hạng đánh chiếm Cam Châu, thừa thắng tấn công cả phủ Tây Lương, khống chế cả vùng phía Tây Hoàng Hà và khu vực Hà Thao. Do chiến công này, Lý Đức Minh đã lập ông làm Thái tử, dự định sẽ lập quốc.
Kiến quốc xưng đế
Sau khi cha của ông mất vào năm 1032, ông lên kế vị cha làm thủ lĩnh, lãnh tước phong Định Nan quân Tiết độ sứ, Tây Bình vương. Nước Liêu phong ông làm Hạ quốc vương. Tuy xưng phiên thần với cả Tống Liêu, nhưng thực tế ông xây dựng chính quyền độc lập, tự xưng là "Ngột tốt", tức "thiên tử" trong tiếng Đảng Hạng. Việc làm này bị các quý tộc Đảng Hạng phản đối, tuy nhiên, ông không nhượng bộ, dùng các thủ đoạn tàn khốc triệt để tiễn trừ cựu phái. Bên cạnh đó, ông cũng tích cực tự gây dựng cho mình một lực lượng quân đội hùng mạnh gồm 50 vạn quân, nhằm đủ sức bảo vệ lãnh thổ Đảng Hạng mà cả Tống Liêu đều dòm ngó.
Khi làm thủ lĩnh, Lý Nguyên Hạo kế thừa ước mơ của cha và ông nội là kiến quốc, xưng đế, xây dựng một triều đại thịnh vượng. Ông sinh ra trong thời buổi li loạn, đất nước Trung Quốc có loạn, nhà Đường mất, rồi tiếp đó là thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Sau đó, thời kỳ này cũng chấm dứt, nhà Tống lên thay. Quân đội nhà Tống tích cực bành trướng lãnh thổ, mong muốn thống nhất Trung Nguyên. Tống binh từng đem binh đánh sang miền đất của ông, kết quả bị ông đánh cho đại bại. Phải nói trong cuộc lãnh đạo quân đội của mình chống xâm lăng, ông là "một người lãnh đạo bền bỉ và mạnh mẽ".
Năm 1034, Lý Nguyên Hạo đem quân tấn công lộ Hoàn Khánh, kết quả là đại thắng, bắt được tướng Tống là Tề Tông Củ. Sau đó, Cảnh Tông chuyển hướng sang tấn công tộc Duy Ngô Nhĩ ở phía Tây vào năm 1036. Cuộc chiến với người Duy Ngô Nhĩ có vẻ mang lại nhiều thắng lợi hơn, ông thắng được bộ tộc này, chiếm lấy một dải đất rộng lớn mà ngày nay chính là tỉnh Cam Túc. Để chiếm được một miền đất rộng lớn như vậy cũng phải mất một thời gian hơi lâu.
Ngày 11 tháng 10 năm Đại Khánh thứ 2 (10 tháng 11 năm 1038), Lý Nguyên Hạo chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Hạ, đóng đô tại phủ Hưng Khánh (nay là Ngân Xuyên, khu tự trị Ninh Hạ, Trung Quốc). Nhà Tống chỉ gọi Đại Hạ của ông là Tây Hạ.
Văn trị võ công
Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Cảnh Tông sai đại thần Gia Luật Nhân Vinh phỏng theo văn tự Khiết Đan, lập ra chữ viết Tây Hạ, dốc sức phát triển văn hóa, giáo dục. Bên cạnh đó, Cảnh Tông 3 lần phát động chiến dịch đánh Tống: Tam Xuyên (nay thuộc Diên An, Thiểm Tây), Hiếu Thủy (nay thuộc Long Đức, Ninh Hạ) và Định Xuyên (nay thuộc Cố Nguyên, Cam Túc) và đều thắng lớn cả ba trận. Quân Tây Hạ cũng đụng độ với quân Liêu và đại thắng ở trận núi Hạ Lan, từ đó khẳng định vị thế chân vạc với Tống - Liêu.
Mục tiêu của Cảnh Tông là chiếm giữ vùng đất Quan Trung, nên dốc lực công phá Trường An, tuy nhiên quân Tống ngoan cường chống trả, đánh bại quân Tây Hạ. Do phát động chiến tranh liên tục làm ảnh hưởng đến kinh tế Tây Hạ, binh lực cũng không đủ sức tham chiến dài lâu, Cảnh Tông buộc phải ký hòa ước Khánh Lịch 1044 với Tống, qua đó tạo uy hiếp với Liêu quốc. Dù phải xưng thần với Tống và Tống Nhân Tông công nhận Cảnh Tông là quốc vương xứ Thổ Phồn (Hạ quốc vương), nhưng đổi lại, nhà Tống mỗi năm phải "cho" trà và bạc mỗi thứ 25 vạn rưỡi lạng cho Tây Hạ. Tuy quân Tây Hạ rút đi để trả lại thành cho nhà Tống, khi rút lui, họ dùng chiến lược tiêu thổ, mang đi hoặc đốt cháy quân dụng của Tống. Nhà Tống chỉ còn tiếp nhận được những tòa thành rỗng không.
Sau khi đình chiến với Tống, Cảnh Tông bắt đầu thời kỳ xây dựng đất nước. Đầu tiên, ông ra sức củng cố chính quyền, dùng những người Hán làm cố vấn trong triều. Bản thân Cảnh Tông cũng biết tiếng Hán, cũng hâm mộ văn hóa Hán, nên từ cải cách, củng cố đến tổ chức của ông cũng đều y theo người Hán. Lối xưng hô, cách ăn mặc, cách học tập cũng như vậy. Ông khuyến khích quan dân học tiếng Hán, cho in ấn nhiều sách vở, dịch văn tự từ tiếng Hán sang tiếng Thổ Phồn.
Tuy trọng văn hóa Trung Hoa, nhưng Cảnh Tông cũng cố gắng không để cuộc sống văn minh xa hoa của người Hoa ảnh hưởng vào nước mình, vì nó sẽ làm nản ý chí dân tộc của ông, lâu dần sẽ mất đi tính chất mạnh mẽ hiếu chiến của người Thổ Phồn, đó là điều ông không muốn. Ông cũng giảm đi và rồi cắt đứt quan hệ giao thương với nhà Tống, và cố gắng để cho đất nước của mình không bị Hán hóa quá đậm.
Cái chết
Suốt thời gian 16 năm ở ngôi, tuy có nhiều thành tựu văn trị vũ công, nhưng bản chất Cảnh Tông là người tàn bạo, lo sợ nạn ngoại thích, nghi kị công thần, thường xuyên tùy tiện giết hay bãi miễn đại thần. Về sau, Cảnh Tông trở nên đam mê tửu sắc, hoang phí quốc khố.
Do Cảnh Tông hoang dâm, cướp con dâu mình là vợ của thái tử Ninh Lệnh Ca, sủng ái Một Tạng phu nhân, phế truất hoàng hậu Dã Lợi gây nên sự phẫn uất của hai người. Tháng 1 âm lịch năm 1048, hai mẹ con hợp mưu sát Cảnh Tông. Cảnh Tông bị thái tử đâm và chết vì mất máu. Tướng quốc Một Tạng Ngoa Bàng lập tức bắt giữ và xử tử cả hai người, đồng thời hợp mưu với đại tướng Nặc Di Thưởng, lập chị mình là hoàng hậu Một Tạng Hắc Vân làm thái hậu và đưa cháu mình là Lý Lượng Tộ lên kế vị, chính là Tây Hạ Nghị Tông, truy tôn thụy hiệu Cảnh Tông Vũ Liệt hoàng đế, an táng ông tại Thái lăng, Hưng Khánh phủ.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tây Hạ Cảnh Tông** (chữ Hán: 西夏景宗; 7 tháng 6, 1003-9 tháng 1, 1048), tên thật là **Thác Bạt Nguyên Hạo** (拓跋元昊), sau lấy quốc tính của nhà Đường thành **Lý Nguyên Hạo** (李元昊) và
**Tây Hạ Nghị Tông** (chữ Hán: 西夏毅宗; 1047-1067), tên thật là **Ngôi Danh Lượng Tộ** (嵬名諒祚) hay **Ngôi Danh Ninh Lệnh Lưỡng Xá** (嵬名寧令兩岔), là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Tây Hạ,
thumb|right|Lăng mộ số 3 của Hoàng đế Lý Nguyên Hạo thuộc quần thể Lăng mộ Tây Hạ. **Lăng mộ Tây Hạ** là một quần thể các lăng mộ nằm trên khu vực có diện tích
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Tây Hạ Mạt Chủ Nam Bình Vương**, tên thật là **Lý Hiện** (chữ Hán: 西夏末主南平王李睍) (? – tháng 8 năm 1227), là vị hoàng đế thứ 10 và cuối cùng của nước Tây Hạ trong
**Cảnh Tông** (chữ Hán: 景宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. ## Việt Nam *Mạc Cảnh Tông *Nguyễn Cảnh Tông: Vua Đồng Khánh
**Liêu Cảnh Tông** (chữ Hán: 辽景宗; bính âm: Liao Jǐngzōng; 1 tháng 9 năm 948 - 13 tháng 10 năm 982), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Liêu, cai trị từ năm 969
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Một Tạng Ngoa Bàng** (; ? - 1061) là tướng lĩnh, ngoại thích, quyền thần thời Tây Hạ Nghị Tông đầu Tây Hạ trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Một Tạng Ngoa Bàng
**Triều Tiên Cảnh Tông** (chữ Hán: 朝鮮景宗; Hangul: 조선 경종; 1688 - 1724), là vị Quốc vương Triều Tiên thứ 20, trị vì trong 4 năm, từ 1720 đến năm 1724. Cảnh Tông đại vương,
**Thái Tông** (chữ Hán: 太宗) là miếu hiệu của một số vua chúa thường là người lên ngôi thứ hai của mỗi triều đại trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc, và Triều Tiên. Các
**Hạ Thái Tổ** (_chữ Hán_:夏太祖) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Hạ Thái Tổ Lưu Vệ Thần, thủ lĩnh hệ chi Thiết Phất của Nam Hung Nô thời Ngũ
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Vịnh Hạ Long** là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo của thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2006** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão sẽ kéo
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Chiến dịch Sa mạc Tây** hay **Chiến tranh Sa mạc** diễn ra tại Sa mạc Tây thuộc Ai Cập và Libya là giai đoạn đầu của Mặt trận Bắc Phi thuộc Chiến tranh thế giới
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Thân Cảnh Phúc** (chữ Hán: 申景福, 1030 - 1077), còn có tên là **Cảnh Nguyên**, **Đạo Nguyên** hay **Cảnh Long**, biệt danh **Phò mã Áo chàm**, tương truyền có thể là Thân Vũ Thành (theo
**Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của Donald Trump** là chiến dịch tranh cử tổng thống cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang diễn ra của cựu tổng thống thứ
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
[[Kinh Phật viết bằng chữ Đảng Hạng]] **Đảng Hạng** (, ) là tộc người được đồng nhất với triều đại **Tây Hạ** thời xưa, họ cũng được gọi là **Đảng Hạng Khương** (党項羌). Người Đảng
**Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông** (**HKPF**; , Hương Cảng cảnh vụ xứ) là cơ quan điều tra, thực thi pháp luật, và là hàng ngũ kỷ luật lớn nhất thuộc Cục Bảo an của
**Chiến tranh Tây Sơn-Trịnh** là cuộc nội chiến cuối thế kỷ 18 trong lịch sử Việt Nam giữa chính quyền chúa Trịnh và chính quyền nhà Tây Sơn của Nguyễn Nhạc. Cuộc chiến diễn ra
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
**Hiếu Huệ Hạ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠賀皇后, 929 - 958), là nguyên phối thê tử của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Tống trong lịch sử
**Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa** (, viết tắt _CSDC_) cũng được người Pháp gọi là **Police de Campagne** và có nhiều tên gọi khác nhau là **Cảnh sát Dã chiến
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
**Hứa Quân** (chữ Hán: 許均, ? – 1007), người phủ Khai Phong , tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Tống Thái Tổ Cha Hứa Quân là Hứa Mạc,
thumb|Tàu sân bay hộ tống của [[Hải quân Hoàng gia Anh]] **Tàu sân bay hộ tống** (ký hiệu lườn **CVE**, tên tiếng Anh: escort carrier hoặc escort aircraft carrier) là một kiểu tàu sân bay
**Phạt Tống lộ bố văn** (chữ Hán: 伐宋露布文 Bài tuyên bố về việc đánh Tống) là bài hịch văn do Lý Thường Kiệt, tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, viết và cho yết
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997** không có giới hạn chính thức, nó trải dài suốt năm, bắt đầu từ 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 tháng 12. Tuy nhiên tháng