✨Liêu Cảnh Tông

Liêu Cảnh Tông

Liêu Cảnh Tông (chữ Hán: 辽景宗; bính âm: Liao Jǐngzōng; 1 tháng 9 năm 948 - 13 tháng 10 năm 982), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Liêu, cai trị từ năm 969 đến năm 982. Liêu Cảnh Tông tên thật là Gia Luật Hiền (耶律賢), ông là con Liêu Thế Tông lên nối ngôi sau khi hoàng đế Liêu Mục Tông bị ám sát khi đi săn và ông nhận được sự ủng hộ của cả quan chức Hán tộc và tộc Khiết Đan.

Ông là vị hoàng đế có nhiều đóng góp cho triều đại nhà Liêu. Trong triều đại của ông, quan chức người Hán mới bắt đầu được sử dụng ở triều đình. Điều này đã khiến cho triều đình nhà Liêu trở nên hưng thịnh hơn và biến nhanh hơn thành một xã hội phong kiến. Sử gia sau này gọi tới thời kỳ trị vì của ông là Cảnh Tông trung hưng(景宗中兴).

Trị vì

Liêu Cảnh Tông kế vị Liêu Mục Tông vào ngày 13 tháng 3 năm 969 sau khi Mục Tông bị người hầu của mình sát hại trong một chuyến đi săn vào 01 ngày trước đó. Ông nhận được sự ủng hộ của cả giới tinh hoa cầm quyền Khiết Đan và Hán. Sau khi Cảnh Tông kế vị, do Tiêu Tư Ôn có công giúp đỡ, Tiêu Xước (con gái út của Tiêu Tư Ôn) được tuyển làm quý phi và sau đó trở thành hoàng hậu.

Trưởng tỉ của Tiêu Xước là Tiêu Hòa Hãn đã kết hôn với Gia Luật Yểm Triệt Cát. Cảnh Tông vừa lên ngôi thì phong cho Gia Luật Yểm Triệt Cát làm Tề vương và Tiêu Hòa Hãn làm Tề vương phi. Nhị tỉ Y Lặc Lan của Tiêu Xước có chồng là Gia Luật Hi Ẩn đang bị giam cầm 9 năm qua vì tội mưu phản. Khi em rể của Y Lặc Lan là Cảnh Tông lên ngôi, Gia Luật Hi Ẩn lập tức được thả ra.

Cảnh Tông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho triều đại Liêu. Ông sử dụng các quan chức người Hán trong chính phủ của mình, bổ nhiệm một người làm Bộ trưởng Bộ Nam và Công tước của Tần. Điều này đã khiến cho triều đình nhà Liêu trở nên hưng thịnh hơn và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi xã hội Khiết Đan thành xã hội phong kiến. Ông thẳng tay trấn áp nạn tham nhũng trong chính phủ, sa thải những người tham ô hoặc không đủ năng lực. Cảnh Tông cũng sẵn sàng chấp nhận những lời chỉ trích. Ông ngừng săn bắn thường xuyên sau khi một quan chức liên quan đến việc săn bắn và cái chết của Mục Tông, và ông bắt đầu chuẩn bị chiến tranh chống lại các nước láng giềng phía nam của mình.

Năm 970 Tiêu Xước hoàng hậu sinh hạ trưởng nữ cho Cảnh Tông, đặt tên là Quan Âm Nữ. Năm Bảo Ninh thứ 4 (972), Tiêu Xước hoàng hậu sinh hạ trưởng tử cho Cảnh Tông, đặt tên là Gia Luật Long Tự. Cùng năm 972, Tề vương Gia Luật Yểm Triệt Cát qua đời và Tề vương phi Tiêu Hòa Hãn (trưởng tỉ của Tiêu Xước) trở thành Tề vương thái phi. Sau khi chồng qua đời, Tiêu Hòa Hãn đã đảm nhận vị trí người đứng đầu quân đội của Gia Luật Yểm Triệt Cát.

Tiêu Xước hoàng hậu còn sinh hạ được hai hoàng tử: Gia Luật Long Khánh và Gia Luật Long Hựu cùng hai công chúa: Trường Thọ Nữ và Diên Thọ Nữ. Theo "Tục tư trị thông giám trường biên" (續資治通鑑長編), hoàng tử chết yểu là Gia Luật Trịnh Ca có khả năng là hoàng tử thứ 4 mà Tiêu Xước hoàng hậu hạ sinh. Ngoài ra, Cảnh Tông còn nạp một cô gái thuộc vương tộc Bột Hải làm phi (gọi là Bột Hải phi) và một cô gái họ Mỗ (gọi là Mỗ thị) làm phi.

Gia Luật Hi Ẩn sau khi được Cảnh Tông thả ra khỏi ngục được vài năm thì lại lên kế hoạch cho một cuộc nổi dậy khác chống lại Cảnh Tông. Gia Luật Hi Ẩn lại bị bắt, con trai ông ta và Tiêu phu nhân Y Lặc Lan (Nhị tỉ của Tiêu Xước) bị quân Liêu sát hại.

Do Cảnh Tông thân thể yếu đuối, nhiều bệnh, có khi không thể thượng triều, đại sự quốc gia phần lớn do Hoàng hậu Tiêu Xước hiệp trợ xử lý, thực tế là Tiêu Xước thay mặt ông giải quyết.

Năm Bảo Ninh thứ 8 (975), Cảnh Tông nói với sử quán học sĩ: "Trong thư tịch hãy ghi hoàng hậu xưng "trẫm" hoặc "dư"". Rất nhiều chính tích của Cảnh Tông đều có công lao của Tiêu Xước hoàng hậu.

Trong năm 975 Cảnh Tông phát động một cuộc xâm lược lớn vào hậu duệ của vương quốc Bột Hải là Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa). Tuy nhiên quân Khiết Đan của Cảnh Tông đã bị quân Định An Quốc của Liệt Vạn Hoa đánh bại. Quân Khiết Đan của Cảnh Tông phải lui quân.

Sau cuộc chiến này, một số tướng lĩnh người Bột Hải của nhà Liêu đã nổi dậy đánh chiếm thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc) của nhà Liêu, lập ra vương quốc Yên Pha (頗頗 Yeonpa), tuyên bố chống lại nhà Liêu của Cảnh Tông. Kinh đô của vương quốc Yên Pha đặt tại Phù Châu.

Gia tộc họ Liệt cai trị Định An Quốc bị thay thế bởi gia tộc họ Ô vào năm 976 sau một cuộc binh biến lớn trên khắp vương quốc. Vua Liệt Vạn Hoa bị giết chết. Nhiều vương tộc họ Liệt cũng bị giết. Vương quốc Định An nằm dưới quyền của Ô Huyền Minh (오현명, 烏玄明, Oh Hyeon-myeong) - hậu duệ của Ô Tế Hiển (người từng giúp Liệt Vạn Hoa thành lập Định An Quốc vào năm 935). Các nhà sử học Triều Tiên và Hàn Quốc đưa ra giả thuyết rằng việc gia tộc họ Ô thay thế Gia tộc họ Liệt bằng hành vi bạo lực có thể đã đóng một vai trò nào đó trong việc hủy diệt Định An Quốc. Ô Huyền Minh tự lập làm vua của Định An Quốc và bổ nhiệm dòng tộc họ Ô của mình vào các chức vụ quan trọng của Định An Quốc. Thành Tự Khánh (nay là Diên Biên, Cát Lâm, Trung Quốc) tiếp tục được vua Ô Huyền Minh chọn làm kinh đô của vương quốc.

Hàn Đức Nhượng hầu hạ Cảnh Tông, nhờ cẩn thận mà nổi tiếng, được Cảnh Tông phong làm Đông đầu thừa phụng quan, bổ chức Khu mật viện thông sự. Rồi sau đó Hàn Đức Nhượng được chuyển sang làm Thượng kinh hoàng thành sứ, diêu thụ Chương Đức quân tiết độ sứ, nhận chức cũ của cha là Thượng kinh lưu thủ, quyền Tri kinh sự. Uy tín của Hàn Đức Nhượng rất được khen ngợi.

Cuộc xung đột đầu tiên của Cảnh Tông với triều đại Bắc Tống là cuộc xâm lược của nhà Tống với triều đại Bắc Hán. Đầu năm 979, vua Tống Thái Tông quyết định xuất quân, lệnh Phan Mĩ làm thống soái, cùng Thôi Tiến, Lý Hán Quỳnh, Tào Hàn, Mễ Tín, Lưu Ngộ, Điền Trọng Tiến... đánh Thái Nguyên; Quách Tiến đóng quân ở Thạch Lĩnh ngăn chặn viện binh nhà Liêu. Cảnh Tông sai sứ đến Tống, ngăn cản việc bắc phạt, Tống Thái Tông không theo. Biết thế nào người Liêu cũng sẽ ra quân, Tống Thái Tông quyết định thân chinh ra Hà Bắc, để Thẩm Luân, Vương Nhâm Thiện ở lại trấn thủ Biện Kinh.

Quân Tống tiến đến Thái Nguyên. Cảnh Tông được tin, cử Gia Luật Sa và Gia Luật Địch Lý đến cứu viện Bắc Hán. Hai quân giao chiến một trận lớn ở Bạch Ma Lĩnh, quân Liêu thảm bại trước Quách Tiến, Gia Luật Địch Lý tử trận, Gia Luật Sa phải tháo chạy. Lúc này Tống Thái Tông đang ở Trấn châu, được tin thắng trận, mệnh Phan Mĩ đưa đại quân tới công thành Thái Nguyên. Tiết độ sứ Kiến Hùng của Bắc Hán là Lưu Kế Nghiệp quyết tâm tử thủ. Bấy giờ có Quách Siêu ra hàng, nhưng quân Tống cho là gian trá, liền giết Phạm Siêu. Về sau Tống Thái Tông mới hối hận, cho hậu táng chu đáo. Các tướng trong thành biết tin đưa nhau ra hàng, thành Thái Nguyên thế cùng lực kiệt, không còn giữ được bao lâu. Vua Bắc Hán Lưu Kế Nguyên trước tình thế đó, đành phải ra đầu hàng, được phong tước quận công. Từ thời điểm đó, Trung Quốc được thống nhất làm một dưới triều Bắc Tống.

Khi đó Hàn Đức Nhượng phục vụ nhà Liêu như một tướng lĩnh quân đội cùng năm 979. Ông ta dần dần được thăng chức. Hàn Đức Nhượng ở lại Nam Kinh và trở thành Thượng thư có ảnh hưởng và quyền lực nhất không lâu sau khi được thăng chức.

Mùa hạ năm 979, sau khi diệt Bắc Hán, vua Tống Thái Tông muốn thừa cơ đánh Liêu, khôi phục 16 châu Yên Vân nên đã xuất quân từ Thái Nguyên, tiến vào Yến, Vân; nhanh chóng lấy được hai châu Trác, Dịch. Quân Tống thừa thắng đánh sang U châu. Tướng Liêu Gia Luật Hi Đạt và Tiêu Thảo Cố dẫn quân ra chống, song không thành công, thua trận bỏ chạy. Thành Nam Kinh bị quân Tống bao vây, người Tống vừa đánh vừa gọi hàng, tình thế khẩn trương, lòng người hoang mang, tướng Liêu là Hàn Đức Nhượng lên thành đốc thúc quân sĩ chống đỡ, đêm ngày phòng bị khiến quân Tống không phá nổi thành. Tống Thái Tông mệnh bọn Tống Ốc đánh mạnh vào thành Yến Kinh; lại chia quân đánh các châu Kế, Thuận. Tướng Liêu là Gia Luật Học Cổ Đa Phương ra sức giữ thành, quân Tống công phá đã lâu vẫn không chiếm được. Gia Luật Sa đem quân tới cứu U châu. Tháng 8, hai bên giao chiến tại Cao Lương hà. Ban đầu quân Tống chiếm ưu thế, liền thừa cơ truy đuổi; bỗng rơi vào ổ mai phục của quân Liêu, do hai tướng Gia Luật Hưu Ca, Gia Luật Tà Chẩn chỉ huy. Quân Tống đại bại, quân Liêu thừa thắng kéo vào giải vây U châu. Tống Thái Tông kinh hoàng thất sắc; may nhờ có Hô Duyên Tán, Phụ Siêu đưa quân đến cứu mới có thể an toàn mà rút về Trác châu.

Hàn Đức Nhượng cũng dẫn quân Liêu xông ra khỏi Nam Kinh đón đán quân Tống và đại phá quân Tống. Nhờ công lao đó, Hàn Đức Nhượng được bái làm Liêu Hưng quân tiết độ sứ, gọi về làm Nam Viện xu mật sứ.

Gia Luật Hưu Ca cho quân đuổi tới, quân Tống bị đánh tan tác, bỏ chạy về hướng nam. Giữa đường, ngựa của Tống Thái Tông rơi vào vũng lầy không kéo lên được, tình thế vô cùng nguy cấp, nhưng lúc đó có Dương Nghiệp (tức Lưu Kế Nghiệp, đã hàng Tống) đến cứu giá kịp lúc. Dương Nghiệp tình nguyện ở lại chặn đường quân Liêu, thắng được một trận, đẩy lui truy binh Liêu. Tống Thái Tông về Định châu, lệnh Mạnh Huyền Triết giữ nơi này, Thôi Ngạn Triết giữ Quan Nam, Lưu Đình Hàn và Lý Hán Quỳnh giữ Chân Định rồi xa giá về Biện Kinh. Quân Tống chủ quan, khinh địch, nên bị quân Liêu của Gia Luật Hưu Ca đánh bại, phải lui về Mạc châu. Gia Luật Hưu Ca cho quân đuổi tới Mạc châu, bắt và giết nhiều quân, tướng Tống. Tin bại trận bay về Biện Kinh. Vua Tống Thái Tông hạ lệnh thân chinh, đưa quân đến phủ Đại Danh, Cảnh Tông nghe tin thì cho lui quân, đó là vào ngày 20 tháng 12 (11 tháng 11 ÂL)

Qua đời

Vào ngày 13 tháng 10 năm 982, Cảnh Tông qua đời trên đường trở về sau một chuyến đi săn vá được an táng ở Càn lăng. Thụy hiệu của ông là Hiếu Thành Khang Tịnh Hoàng Đế (孝成康靖皇帝). Khi mất ông mới 34 tuổi. Vợ ông là hoàng hậu Tiêu Xước lập con ông là Gia Luật Long Tự (khi đó mới 12 tuổi) lên ngôi vua, tức là vua Liêu Thánh Tông. Tiêu Xước trở thành thái hậu.

Niên hiệu

Trong đời ông có hai niên hiệu là:

  • Bảo Ninh (保寧 Bǎoníng): 969 - 979
  • Càn Hanh (乾亨 Qiánhēng): 979 - 982
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Liêu Cảnh Tông** (chữ Hán: 辽景宗; bính âm: Liao Jǐngzōng; 1 tháng 9 năm 948 - 13 tháng 10 năm 982), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Liêu, cai trị từ năm 969
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Liêu Thái Tông** (25 tháng 11, 902 – 18 tháng 5, 947), tên thật là **Nghiêu Cốt**, tên tiếng Hán **Gia Luật Đức Quang** (耶律德光), tên tự **Đức Cẩn**, là vị hoàng đế thứ hai
**Liêu Thế Tông** (chữ Hán: 遼世宗; 25 tháng 12, 918-4 tháng 9, 951 (Âm lịch), 29 tháng 1, 919-7 tháng 10, 951), tên thật là **Gia Luật Nguyễn**, tự **Ngột Dục**, là vị hoàng đế
**Liêu Hưng Tông** (chữ Hán: 遼興宗; bính âm: Liao Xīngzōng; 3 tháng 4 năm 1016 - 28 tháng 8 năm 1055), là vị hoàng đế thuộc dòng họ **Gia Luật** (耶律氏) thứ bảy của nhà
**Liêu Mục Tông** (chữ Hán: 遼穆宗; 19 tháng 9 năm 931 - 12 tháng 3 năm 969), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Liêu, cai trị từ năm 951 đến năm 969. Ông
**Liêu Đạo Tông** (chữ Hán: 遼道宗; 1032-1101), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Liêu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ tháng 8 âm lịch năm 1055 tới ngày 12 tháng
**Cảnh Tông** (chữ Hán: 景宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. ## Việt Nam *Mạc Cảnh Tông *Nguyễn Cảnh Tông: Vua Đồng Khánh
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tây Hạ Cảnh Tông** (chữ Hán: 西夏景宗; 7 tháng 6, 1003-9 tháng 1, 1048), tên thật là **Thác Bạt Nguyên Hạo** (拓跋元昊), sau lấy quốc tính của nhà Đường thành **Lý Nguyên Hạo** (李元昊) và
**Cao Ly Cảnh Tông** (Hangul: 고려 경종, chữ Hán: 高麗 景宗; 9 tháng 11 năm 955 – 13 tháng 8 năm 981, trị vì 975 – 981) là quốc vương thứ năm của vương triều
**Triều Tiên Cảnh Tông** (chữ Hán: 朝鮮景宗; Hangul: 조선 경종; 1688 - 1724), là vị Quốc vương Triều Tiên thứ 20, trị vì trong 4 năm, từ 1720 đến năm 1724. Cảnh Tông đại vương,
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Liêu sử** là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), tổng cộng có 116 quyển kể lại các sự kiện lịch sử từ khi ra
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông** (**HKPF**; , Hương Cảng cảnh vụ xứ) là cơ quan điều tra, thực thi pháp luật, và là hàng ngũ kỷ luật lớn nhất thuộc Cục Bảo an của
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Bạc Liêu** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bạc Liêu cũ, Việt Nam. ## Địa lý giữa|nhỏ|Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu tại phường 2 Thành phố Bạc Liêu nằm ở
**Tây Liêu** () (1124 hoặc 1125-1218), hay còn gọi là **Hãn quốc Kara-Kitai** () hay **Tây Khiết Đan** quốc hiệu chính thức là **Đại Liêu** (), là một nhà nước của người Khiết Đan ở
**Liêu Thái Tổ** () (872-926), tên là **Gia Luật A Bảo Cơ** (**_Yelü Abaoji_**, 耶律阿保機), phiên âm tiếng Mongol: _Ambagyan_, Hán danh là **Gia Luật Ức** (耶律亿), nhũ danh **Xuyết Lý Chích** (啜里只), là vị
Bộ Cọ Trang Điểm Cá Nhân Có 8 Cây, Nhiều Màu Lựa Chọn, Có Túi Đựng Thời Trang, Lông Mịn, Dễ Chịu Cho Da, Thuận Tiện Khi Sử Dụng, Đầy Đủ Chức Năng Makeup Cơ
Bộ Cọ Trang Điểm Cá Nhân Có 8 Cây, Nhiều Màu Lựa Chọn, Có Túi Đựng Thời Trang, Lông Mịn, Dễ Chịu Cho Da, Thuận Tiện Khi Sử Dụng, Đầy Đủ Chức Năng Makeup Cơ
Bộ Cọ Trang Điểm Cá Nhân Có 8 Cây, Nhiều Màu Lựa Chọn, Có Túi Đựng Thời Trang, Lông Mịn, Dễ Chịu Cho Da, Thuận Tiện Khi Sử Dụng, Đầy Đủ Chức Năng Makeup Cơ
THUỘC TÍNH SẢN PHẨMThời gian bảo hành:Không Bảo Hành.Nguồn gốc:Hàng VN sản xuất.Nhãn hiệu:Khác.Chất liệu:CHẤT TỔNG HỢP.Kích thước:8.Xuất xứ:Việt Nam.CHI TIẾT SẢN PHẨMNẹp cánh tay Orbe H31. Chức năng:- Nẹp cánh tay ORBE H3giúp cố
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
phải|nhỏ|Phân mảnh và phá hủy sinh cảnh của [[Họ Người|Vượn Lớn ở Trung Phi, từ các dự án GLOBIO và GRASP (2002). Các khu vực được hiển thị bằng màu đen và đỏ lần lượt
nhỏ|Hình ảnh của nhà máy nhựa đường để làm đường nhựa. **Bê tông nhựa** là hỗn hợp cấp phối gồm: đá, cát, bột khoáng và nhựa đường, được sử dụng chủ yếu làm kết cấu
nhỏ|phải|[[John Adams, Phó Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên]] **Phó Tổng thống Hoa Kỳ** (_Vice President of the United States_) là một người giữ chức vụ công do Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra. Phó
✤ Giới thiệu máy massage xung điện➤ Máy massage xung điện4 miếng dán là sản phẩm hỗ trợ làm giảm đau mỏi cổ, đau nhức vùng vai gáy, đau lưng, đau các vùng cơ như
CNN Money đã thống kê những số liệu quan trọng nhất của ngành thép toàn cầu trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump vừa thông báo nước này sẽ áp mức thuế 25% đối
✦ Giới thiệu máy mát xaxung điện YTK - 309B➤ Máy massage xung điệnYTK - 309B sử dụng dòng điện sinh học thông qua các miếng dán xung điện, tác động sâu vào các vùng
Trong nhiều ngôn ngữ lập trình bắt nguồn từ C và Algol68, **kiểu void** (tiếng Anh: _void type_) là một kiểu kết quả của hàm nếu hàm này không trả về bất kì kết quả
**Quang trị liệu** hoặc **liệu pháp ánh sáng** (tiếng Anh: light therapy, phototherapy, heliotherapy) là phương pháp trị liệu bao gồm tiếp xúc với ánh sáng ban ngày hoặc tiếp xúc với các phổ điện
**Tiêu Xước** (萧綽, 953–1009), hay **Tiêu Yến Yến** (萧燕燕), là một hoàng hậu, hoàng thái hậu và chính trị gia triều Liêu. Bà là hoàng hậu của Liêu Cảnh Tông, và sau khi Cảnh Tông
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, _Hầu Cảnh chi loạn_) là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Lương của hàng tướng Hầu Cảnh đến từ nhà Đông Ngụy, diễn ra từ tháng 8
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của Donald Trump** là chiến dịch tranh cử tổng thống cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang diễn ra của cựu tổng thống thứ
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Gia Luật Sa** (耶律沙, ?-988), tự **An Ẩn** (安隱), là một quân nhân, chính trị gia của triều Liêu. ## Thân thế Gia Luật Sa là hậu duệ của Diêu Liễn thị, đến những năm
**Tài liệu Panama** hay **Hồ sơ Panama** () là một bộ 11,5 triệu tài liệu mật được tạo ra bởi nhà cung cấp dịch vụ của công ty Panama Mossack Fonseca cung cấp thông tin
**Hàn Đức Nhượng** (chữ Hán: 韩德让, 941 – 1011), người dân tộc Hán, nguyên quán Ngọc Điền, Kế Châu , tể tướng nhà Liêu, về cuối đời được ban tên họ là **Gia Luật Long