✨Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997

Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997

Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997 không có giới hạn chính thức, nó trải dài suốt năm, bắt đầu từ 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 tháng 12. Tuy nhiên tháng 5 đến tháng 11 là giai đoạn tập trung số lượng lớn các xoáy thuận nhiệt đới hình thành.. Đây là mùa bão hoạt động mạnh nhất từng được ghi nhận trên Trái Đất với số lượng kỷ lục các cơn bão mạnh, 10 cơn siêu bão cấp 5 trong thang bão Saffir-Simpson và tổng chỉ số ACE là 594.11.

Phạm vi của bài viết giới hạn ở khu vực Thái Bình Dương, phần phía Bắc đường xích đạo và bên trái của đường đổi ngày quốc tế. Những cơn bão hình thành ở khu vực phía Bắc xích đạo và bên phải đường đổi ngày quốc tế thuộc về khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương (xem Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997). Những cơn bão nhiệt đới hình thành tại Tây Bắc Thái Bình Dương được đặt tên bởi Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (Joint Typhoon Warning Center (gọi tắt là JTWC)). JTWC sẽ đặt tên cho cơn bão khi vận tốc gió duy trì 1 phút của một vùng áp thấp nhiệt đới đạt 40 dặm/giờ (65 km/giờ). Áp thấp nhiệt đới ở Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được ký hiệu bởi chữ W phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc đi vào khu vực theo dõi của Philippines cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines hay gọi tắt là PAGASA. Điều này là lý do khiến cho nhiều trường hợp, một cơn bão có hai tên gọi khác nhau.

Tóm lược mùa bão

ImageSize = width:995 height:211 PlotArea = top:10 bottom:80 right:20 left:20

Legend = columns:3 left:30 top:58 columnwidth:270

AlignBars = early DateFormat = dd/mm/yyyy Period = from:01/01/1997 till:31/12/1997 TimeAxis = orientation:horizontal ScaleMinor = grid:black unit:month increment:1 start:01/01/1997

Colors = id:canvas value:gray(0.88) id:GP value:red id:TD value:rgb(0.38,0.73,1) legend:Áp_thấp_nhiệtđới=_<39dặm/giờ(<62_km/giờ) id:TS value:rgb(0,0.98,0.96) legend:Bão_nhiệtđới=_39-54dặm/giờ(63-88_km/giờ) id:ST value:rgb(0.80,1,1) legend:Bão_nhiệt_đới_dữdội=_55-73dặm/giờ(89-117_km/giờ) id:TY value:rgb(0.99,0.69,0.6) legend:Bão_cuồngphong=_>74dặm/giờ(>118_km/giờ)

Backgroundcolors = canvas:canvas

BarData = barset:Hurricane bar:Month

PlotData= barset:Hurricane width:11 align:left fontsize:S shift:(4,-4) anchor:till from:19/01/1997 till:27/01/1997 color:TD text:"Hannah" from:12/04/1997 till:23/04/1997 color:TY text:"Isa" from:22/04/1997 till:26/04/1997 color:TS text:"Jimmy" from:06/05/1997 till:10/05/1997 color:TS text:"Kelly" from:26/05/1997 till:30/05/1997 color:TS text:"Levi" from:27/05/1997 till:01/06/1997 color:TY text:"Marie" from:05/06/1997 till:14/06/1997 color:TY text:"Nestor" from:14/06/1997 till:20/06/1997 color:TY text:"Opal" barset:break from:22/06/1997 till:28/06/1997 color:TY text:"Peter" from:18/07/1997 till:31/07/1997 color:TY text:"Rosie" from:20/07/1997 till:02/08/1997 color:TS text:"Scott" from:29/07/1997 till:09/08/1997 color:TY text:"Tina" from:30/07/1997 till:04/08/1997 color:ST text:"Victor" from:06/08/1997 till:20/08/1997 color:TY text:"Winnie" from:16/08/1997 till:23/08/1997 color:ST text:"Yule" from:17/08/1997 till:19/08/1997 color:TD text:"16W" barset:break from:20/08/1997 till:24/08/1997 color:ST text:"Zita" from:21/08/1997 till:31/08/1997 color:TY text:"Amber" from:26/08/1997 till:04/09/1997 color:TY text:"Bing" from:27/08/1997 till:30/08/1997 color:TS text:"Cass" from:03/09/1997 till:16/09/1997 color:TY text:"Oliwa" from:21/09/1997 till:23/09/1997 color:TD text:"Ella" from:21/09/1997 till:27/09/1997 color:ST text:"Fritz" from:23/09/1997 till:30/09/1997 color:TY text:"Ginger" barset:break from:02/10/1997 till:07/10/1997 color:TD text:"26W" from:03/10/1997 till:05/10/1997 color:TS text:"Hank" from:13/10/1997 till:25/10/1997 color:TY text:"Ivan" from:13/10/1997 till:24/10/1997 color:TY text:"Joan" from:26/10/1997 till:08/11/1997 color:TY text:"Keith" from:31/10/1997 till:04/11/1997 color:ST text:"Linda" from:09/11/1997 till:16/11/1997 color:TS text:"Mort" from:28/11/1997 till:23/12/1997 color:TY text:"Paka" bar:Month width:5 align:center fontsize:S shift:(0,-20) anchor:middle color:canvas from:01/01/1997 till:01/02/1997 text:Tháng 1 from:01/02/1997 till:01/03/1997 text:Tháng 2 from:01/03/1997 till:01/04/1997 text:Tháng 3 from:01/04/1997 till:01/05/1997 text:Tháng 4 from:01/05/1997 till:01/06/1997 text:Tháng 5 from:01/06/1997 till:01/07/1997 text:Tháng 6 from:01/07/1997 till:01/08/1997 text:Tháng 7 from:01/08/1997 till:01/09/1997 text:Tháng 8 from:01/09/1997 till:01/10/1997 text:Tháng 9 from:01/10/1997 till:01/11/1997 text:Tháng 10 from:01/11/1997 till:01/12/1997 text:Tháng 11 from:01/12/1997 till:31/12/1997 text:Tháng 12


Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997 ghi nhận số lượng bất thường các cơn siêu bão, với 11 cơn bão đạt vận tốc gió 135 hải lý/giờ trở lên (gió duy trì 1 phút) (130 hải lý/giờ trở lên sẽ được gọi là siêu bão bởi JTWC). Trong đó có tới 10 cơn siêu bão cấp 5 trong thang bão Saffir-Simpson (vận tốc gió duy trì liên tục trong 1 phút từ 140 hải lý/giờ trở lên). Nguyên nhân do hiện tượng El Niño hoạt động rất mạnh trong giai đoạn 1997-1998, tạo ra số lượng nhiều bất thường các cơn bão và cường độ lớn ở không chỉ Tây Bắc mà toàn bộ khu vực Thái Bình Dương trong năm 1997. Tuy nhiên may mắn là hầu hết trong số chúng giữ trạng thái mạnh nhất lúc ở xa ngoài đại dương và ít ảnh hưởng tới đất liền.

Vài thông tin

Khi cơn bão Peter đổ bộ vào miền Nam Nhật Bản và ngày 27 tháng 6, đó là lần đầu tiên ghi nhận 2 cơn bão đổ bộ đất liền Nhật Bản trong cùng tháng 6 kể từ năm 1951, khi bắt đầu có các tài liệu đáng tin cậy.. Theo JTWC, đã có 11 cơn bão đạt tới cường độ siêu bão, 10 trong số chúng trở thành siêu bão cấp 5, đó là số lượng nhiều kỷ lục các cơn siêu bão cấp 5 trong một mùa bão từng được ghi nhận.

Các cơn bão

Trong thông tin về các cơn bão dưới đây, vận tốc gió được đưa ra có sự khác biệt giữa Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) và Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA). Do JTWC sử dụng tiêu chí của Hoa Kỳ xác định vận tốc gió duy trì liên tục tối đa trong khoảng thời gian là 1 phút, trong khi JMA xác định vận tốc gió duy trì liên tục trong khoảng thời gian 10 phút. Sự khác biệt này dẫn đến kết quả là vận tốc gió đưa ra bởi JTWC thường lớn hơn con số của JMA cho cùng một cơn bão.

Áp thấp nhiệt đới Hannah (Atring)

Vào đầu tháng 1, một khu vực mây đối lưu đã hình thành dọc theo một rãnh thấp gần xích đạo ngay sát phía Tây đường đổi ngày quốc tế. Hệ thống di chuyển ổn định về phía Tây, và duy trì bất tổ chức trong vòng một tuần. Đến ngày 18 tháng 1, đối lưu sâu được tăng cường và hoàn lưu mực thấp bắt đầu hình thành, và vào lúc 0000 UTC ngày 19 vùng nhiễu động đã phát triển thành áp thấp nhiệt đới 01W trên khu vực phía Tây Nam Guam. Dựa vào ước tính từ ảnh vệ tinh, JTWC đã nâng cấp hệ thống lên thành bão nhiệt đới Hanah 6 giờ sau kể từ lúc nó bắt đầu hình thành. Đối lưu nhanh chóng tổ chức thành những dải mây xoắn, và đến sáng sớm ngày 20, Hannah đạt đỉnh với vận tốc gió 60 dặm/giờ khi trên khu vực gần Yap. Một thời gian sau. độ đứt gió tăng lên khiến cơn bão suy yếu. Ngoài ra, việc tương tác với một hệ thống ngoại nhiệt đới lớn và mạnh dẫn đến việc Hannah di chuyển thất thường, và đến ngày 22 nó đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới. Hannah sau đó di chuyển theo hướng Tây Nam ổn định, trước khi tan trên vùng biển phía Đông Philippines, gần đảo Mindanao vào ngày 27.

Trong giai đoạn hoạt động cuối cùng của cơn bão, Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA bắt đầu đưa ra những cảnh báo về Hannah khi nó chỉ đang còn là áp thấp nhiệt đới. Tổ chức này đặt tên nó là áp thấp nhiệt đới Atring. Hannah không được JMA công nhận là bão nhiệt đới, họ phân loại nó là áp thấp nhiệt đới.

Bão Isa

Isa hình thành từ một nhiễu động trong rãnh gió mùa trên khu vực gần quần đảo Caroline vào ngày 12 tháng 4. Ban đầu hệ thống di chuyển thất thường, dù vậy sau khi mạnh lên thành bão nhiệt đới nó đã vòng về hướng Tây do chịu ảnh hưởng từ áp cao cận nhiệt ở phía Bắc. Sau đó Isa tăng cường một cách chậm rãi, đạt đỉnh trong ngày 20 với vận tốc gió duy trì 1 phút là 165 dặm/giờ (270 km/giờ) theo như báo cáo của JTWC, trở thành siêu bão cấp 5 đầu tiên của mùa bão. JMA nhận định vận tốc gió duy trì 10 phút tối đa của cơn bão là 100 dặm/giờ (155 km/giờ). Sau khi đổi hướng di chuyển về phía Bắc, Isa tăng tốc dần về phía Đông Bắc, và hợp nhất với một xoáy thuận ngoại nhiệt đới lớn vào ngày 24.

Trong giai đoạn hoạt động đầu, Isa gây mưa nhỏ và gió tương đối tại Pohnpei. Sau đó, một dải mây tĩnh từ cơn bão đã đem đến một lượng ẩm lớn cho Guam khi ở đây đang là mùa khô. Thiệt hại tại Guam là 1 triệu USD (USD 1997, tương ứng 1,3 triệu năm 2006), phần lớn là thiệt hại mùa màng. Không có trường hợp thiệt mạng được báo cáo.

Bão nhiệt đới Jimmy

Một hệ thống gió Tây thổi ở tầng thấp gần xích đạo đã phát triển ra một vùng mây đối lưu trong ngày 18 tháng 4, đây cũng là hệ thống đã tạo ra cơn bão Isa trước đó. Vùng mây này trôi dạt về phía Tây - Tây Bắc, và vào ngày 21 nó tách ra khỏi hệ thống gió Tây. Tại thời điểm 0400 UTC ngày 22 tháng 4, JTWC ban hành "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới" với hệ thống mây, và 2 giờ sau họ đã ban hành cảnh báo đầu tiên về bão nhiệt đới Jimmy khi nó ở vị trí cách Guam khoảng 1360 km phía Đông Nam. Cùng lúc đó JMA phân loại nó là một áp thấp nhiệt đới.

Jimmy tiếp tục di chuyển theo hướng Tây Bắc xuyên qua phần bị phá vỡ của áp cao cận nhiệt gây ra bởi Isa, và tăng cường ổn định khi nó đi qua vùng có độ đứt gió theo chiều thẳng đứng yếu. Sau đó cơn bão vòng ngược sang hướng Đông Bắc và đạt đỉnh với vận tốc gió 55 dặm/giờ trong ngày 24.

Bão nhiệt đới Levi (Bining)

Áp thấp nhiệt đới 05W đã trôi dạt về phía Đông vượt qua Philippines trong cuối tháng 5. Sau đó nó di chuyển theo hướng Đông Bắc, mạnh lên thành bão nhiệt đới, và cuối cùng chuyển đổi thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trong ngày 30 tháng 5. Tại Phillippines, 53 người đã thiệt mạng và 210.000 người khác phải di dời do bão.

Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA đã theo dõi cơn bão từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 5, và họ đặt tên nó là Bining. Tại Nhật Bản, 6.750 trường học đã phải đóng cửa do bão. Cơn bão đã tạo ra 14 trận lở đất, làm ngập lụt 50 ngôi nhà và khiến 800 người lâm vào cảnh không có điện. Tổng cộng có ba người thiệt mạng tại Nhật Bản bởi bão Opal.

Bão Peter (Daling)

Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA đã theo dõi cơn bão từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 6, và họ đặt tên nó là Daling. Một trận lở đất đã làm một chiếc tàu hỏa trật đường ray khiến 28 người bị thương. Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ước tính lượng mưa do cơn bão gây ra lên tới 14 inch (360 mm).

Bão Rosie (Elang)

Áp thấp nhiệt đới 10W hình thành trên khu vực gần quần đảo Caroline vào ngày 18 tháng 7. Hệ thống dần mạnh lên thành bão nhiệt đới Rosie và sau đó là một siêu bão cấp 5 vào ngày 22. Rosie tiếp tục di chuyển lên phía Bắc và dần suy yếu. Cơn bão đã đổ bộ vào Shikoku, Nhật Bản trong ngày 26 với cường độ bão cấp 1. Tại Nhật Bản, đã có năm người thiệt mạng và 1.200 người khác phải di dời do bão.

Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA đã theo dõi cơn bão từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 7, và họ đặt tên nó là Elang. JMA đã nâng áp thấp nhiệt đới lên thành một cơn bão nhiệt đới trong ngày 28, và đánh giá nó đạt đỉnh với vận tốc gió 45 dặm/giờ (75 km/giờ).

Bão Tina (Huling)

Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA đã theo dõi cơn bão từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8, và họ đặt tên nó là Huling. Có tất cả 212 người thiệt mạng vì bão Winnie, cùng khoảng hơn 1 triệu người phải đi di dời, thiệt hại vật chất là 4,1 tỉ USD.

Bão nhiệt đới Zita (Luming) (bão số 2)

Hình thành từ một vùng nhiễu động nhiệt đới trên Biển Đông trong ngày 19 tháng 8, Zita di chuyển theo hướng Tây và nhanh chóng mạnh lên do độ đứt gió thấp trong khu vực. Cơn bão đạt vận tốc gió 85 dặm/giờ khi đổ bộ vào bán đảo Lôi Châu vào sáng sớm ngày 22. Duy trì cường độ đó, Zita đổ bộ lần thứ hai vào miền Bắc Việt Nam vào cuối ngày trước khi nhanh chóng suy yếu trên đất liền. Tàn dư của Zita biến mất trên khu vực Tây Bắc Việt Nam, sát biên giới vào ngày 24 tháng 8. Ngay trong giai đoạn đầu hoạt động, Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA đã theo dõi cơn bão và họ đặt tên nó là Luming.

Bão Amber (Miling)

Amber là cơn bão thứ 18 của mùa bão. Áp thấp nhiệt đới ban đầu di chuyển chậm theo hướng Tây - Tây Bắc giữa một áp cao cận nhiệt đới và cơn bão Zita và nó phát triển với một tốc độ nhanh hơn bình thường. Vào ngày 26 tháng 8, bão nhiệt đới Cass hình thành ở phía Tây - Tây Nam khiến Amber tăng tốc về phía trước theo hướng Tây Bắc do ảnh hưởng của hiệu ứng Fujiwhara. Amber đã trải qua chu trình thay thế thành mắt bão từ ngày 25 đến 27 tháng 8, và di chuyển qua Đài Loan với vận tốc gió tối đa 95 knot. Sau đó cơn bão vượt eo biển Đài Loan, đổ bộ vào Trung Quốc với cường độ bão cấp 1. Vào ngày 30 tháng 8, Amber hấp thụ hoàn toàn Cass, trong đất liền Trung Quốc, trước khi thoái hóa xuống còn là tàn dư một vùng thấp và tan vào cuối ngày. Thiệt hại do Amber gây ra là 52 triệu USD. Tàn dư của Bing - một xoáy thuận ngoại nhiệt đới gây mưa lớn cho quần đảo Aleutian vào khoảng giữa ngày mùng 6 và 7 tháng 9. Gió giật vượt quá 60 dặm/giờ (95 km/h) ở một vài khu vực.

Bão nhiệt đới Cass (bão số 3)

Vào ngày 25 tháng 8, một vùng áp suất thấp đã hình thành trên Biển Đông, khu vực phía Tây Philippines. Sau đó, vùng áp thấp bắt đầu mạnh dần lên thành một áp thấp nhiệt đới trong ngày 28. Hệ thống đã không thể mạnh lên trong một khoảng thời gian tiếp theo, do khi đó tồn tại một cơn bão mạnh hơn nhiều ở phía Đông, gần nó (bão Amber). Tuy nhiên, Amber sớm sau đó bắt đầu di chuyển lên phía Bắc, khiến khoảng cách giữa nó và Cass xa hơn một chút, vừa đủ để giúp cho Cass mạnh lên thành bão nhiệt đới. Lúc Amber bắt đầu đổ bộ vào Đài Loan, một dòng thổi vào mạnh ở phần phía Nam của nó đã kéo Cass lên phía Bắc, trong một hiệu ứng được biết đến như là hiệu ứng Fujiwara. Khi Amber đổ bộ và đi sâu vào trong đất liền Trung Quốc, Cass bị kéo lại rất gần Amber, trong khi Cass vẫn duy trì cường độ bão nhiệt đới. Điều ngày khiến cơn bão suy yếu nghiêm trọng khi nó đổ bộ đất liền vào ngày 30 tháng 8. Một thời gian ngắn sau, Cass bị hấp thụ bởi Amber, trong đất liền Trung Quốc.

Bão Oliwa

Vào ngày 2 tháng 9, gió mùa hoạt động đã hình thành nên áp thấp nhiệt đới 2C trên khu vực trung tâm Thái Bình Dương. Hệ thống di chuyển chậm về phía Tây, mạnh lên bão nhiệt đới trong ngày 3 tháng 9. Cuối ngày hôm đó, Oliwa vượt qua đường đổi ngày quốc tế, Tại Nhật Bản, lũ lụt nghiêm trọng do bão đã làm chết 17 người và khiến 30.000 người khác phải đi di tản.

Bão David

Bão David tạo ra những cơn sóng lớn gây xói mòn bờ biển ở Hawaii.

Bão nhiệt đới Fritz (bão số 4)

Một rãnh gió mùa đã phát triển trên Biển Đông trong khoảng giữa tháng 9. Đối lưu sâu đã phát triển bên ngoài rìa của hoàn lưu mực thấp trước khi nhanh chóng củng cố gần trung tâm trong ngày 20 tháng 9. Tại thời điểm đó, JTWC đã phân loại hệ thống là áp thấp nhiệt đới 22W khi nó nằm trên khu vực gần bờ biển Việt Nam. Do ở gần đất liền, áp thấp nhiệt đới rất khó khăn để phát triển thêm cho đến khi nó đột ngột chuyển hướng về phía Đông trong ngày 22 tháng 9.

Tại Việt Nam, đã có 28 người thiệt mạng do bão và thiệt hại vật chất là 5,1 triệu USD.

Bão Ella

Ella có nguồn gốc ở trung tâm Thái Bình Dương và nó đã trở thành bão nhiệt đới trong ngày 20 tháng 9 theo JTWC. Sau một thời gian di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc, Ella đã vòng lại hướng Đông Bắc và tan vào ngày 24 tháng 9.

Bão Ginger

Nguồn gốc của bão Ginger là từ một nhiễu động nhiệt đới trên vùng vĩ độ thấp gần đường đổi ngày quốc tế trong ngày 21 tháng 9. Sang ngày 22, đối lưu sâu đã tập hợp xung quanh tâm hoàn lưu mực thấp và những dải mây mưa đã hình thành quanh hệ thống. Vào thời điểm 0530 UTC, JTWC ban hành "Cảnh báo sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới" cho hệ thống này và đến cuối ngày nó đã được chỉ định là áp thấp nhiệt đới 24W. Di chuyển chủ yếu về hướng Bắc, áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão nhiệt đới trong ngày hôm sau, và nó được đặt tên là Ginger. Quá trình tăng cường đã diễn ra với tốc độ vừa phải cho đến khi hệ thống được nâng cấp lên thành một cơn bão cuồng phong vào ngày 25 tháng 9. Sau một thời gian kể từ khi trở thành bão cuồng phong, Ginger đã trải qua một giai đoạn phát triển vô cùng mạnh mẽ.

Kết thúc giai đoạn phát triển, cơn bão trở thành siêu bão cấp 5, với vận tốc gió đạt 165 dặm/giờ (265 km/giờ) vào lúc 0000 UTC ngày 27 tháng 9. Khi đó, Ginger có một con mắt nhỏ, sắc nét bao quanh bởi một khối mây trung tâm dày đặc và những dải mây đối lưu lớn. Một thời gian ngắn sau khi đạt đỉnh, Gilger bắt đầu chuyển hướng Đông Bắc và suy yếu. Cơn bão dần tăng tốc và trải qua quá trình biến đổi thành một hệ thống ngoại nhiệt đới. JTWC đã ban hành cảnh báo cuối cùng của họ đối với cơn bão vào lúc 0000 UTC ngày 30 tháng 9. Vài giờ sau, hệ thống ngoại nhiệt đới suy yếu xuống dưới ngưỡng cường độ bão cuồng phong.

Tàn dư của Ginger đem đến gió mạnh và mưa lớn cho miền Tây nước Mỹ. Tổng lượng mưa lớn nhất ghi nhận được ở Felida, Washington là 1,3 inch (33 mm). Điện cung cấp tới 450 hộ dân cũng bị cắt trong một thời gian ngắn do gió mạnh.

Áp thấp nhiệt đới Hank

Nguồn gốc của áp thấp nhiệt đới Hank là từ một vùng thấp trên Biển Đông vào cuối tháng 9. Ban đầu, đối lưu gắn kết với vùng thấp còn hạn chế và vận tốc gió là thấp. Trong những ngày tiếp theo, hệ thống dần có tổ chức hơn và đến ngày 3 tháng 10, JTWC đã ban hành "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới". Tuy nhiên, trong phân tích sau cơn bão nhận định rằng khi đó Hank đã là một cơn bão nhiệt đới. Vào lúc JTWC ban hành "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới", Hank đã đạt đỉnh cường độ với vận tốc gió 45 dặm/giờ (75 km/giờ) trước khi bị suy tàn bởi độ đứt gió mạnh. Cuối ngày 3 tháng 10, Hank suy yếu thành áp thấp nhiệt đới và ban đầu nó được cho là đã đổ bộ lên đất liền. Tuy nhiên, những phân tích ảnh từ vệ tinh cho thấy vùng tâm bão đã không đi vào đất liền cho đến ngày 5 tháng 10, một thời gian ngắn trước khi nó tan biến. Không có thiệt hại nào được ghi nhận liên quan đến cơn bão.

Bão Ivan (Narsing)

Hình thành từ một vùng thời tiết nhiễu động trong ngày 13 tháng 10, Ivan dần mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong khi nó di chuyển ổn định theo hướng Tây - Tây Bắc. Vào ngày 15 tháng 10, cơn bão đã trải qua quá trình tăng cường độ nhanh chóng và trạng thái siêu bão cấp 5 trong thang bão Saffir-Simpson. Đến cuối ngày 17, Ivan đạt đỉnh với vận tốc gió 185 dặm/giờ (295 km/giờ) cùng áp suất khí quyển 905 mbar (hPa). Một thời gian ngắn sau cơn bão bắt đầu suy yếu khi nó tiến gần đến Philippines. Ivan đã đổ bộ lên Bắc Luzon với vận tốc gió 140 dặm/giờ (220 km/giờ) vào ngày 20, trước khi suy yếu thành một cơn bão nhiệt đới trong ngày tiếp theo. Sau đó, cơn bão chuyển hướng Đông Bắc, trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trong ngày 25 trước khi tan vào ngày hôm sau. Trong quãng thời gian hoạt động, Ivan đã được theo dõi bởi PAGASA và tên gọi của nó tại Philippines được tổ chức này chỉ định là Narsing.

Bão Joan

Bão Joan đã gây thiệt hại đáng kể trên khắp quần đảo Marshall, trong đó nghiêm trọng nhất là tại Anatahan nơi có 37 ngôi nhà bị phá hủy. Có ba người đã bị thương trong quá trình chuẩn bị bão khi gió giật thổi bay một tấm ván gỗ vào người dân. Thiệt hại do bão là 200.000 USD, chủ yếu là ở Anatahan.

Bão Keith

Là cơn bão thứ 10 trong tổng số 11 cơn bão đạt cường độ siêu bão trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong mùa bão năm 1997, Keith hình thành trên khu vực vĩ độ thấp thuộc quần đảo Marshall. Cơn bão đã vòng ngược lại hướng Đông Bắc sau một thời gian di chuyển theo hướng Tây và vượt qua eo biển giữa hai đảo Rota và Tinian (khoảng cách giữa hai đảo này chỉ là 93 km). Radar từ Guam đã chỉ ra rằng thành mắt bão của Keith đã không chạm tới bất kỳ hòn đảo nào khi nó di chuyển qua eo biển hẹp giữa hai đảo. Do vậy, quần đảo Mariana chịu ảnh hưởng của toàn bộ cơn bão. Vùng gió bão và cấu trúc mây của Keith là nhỏ gọn. Gió Tây thổi tiếp giáp bởi hai rãnh thấp gần xích đạo đã dẫn đến sự hình thành của Keith và một cặp hai cơn bão khác ở phía Nam bán cầu.

Bão nhiệt đới Linda (Openg) (bão số 5)

Bão Linda sau khi đi qua Philippines và Biển Đông, đã đổ bộ Bán đảo Mã Lai vào ngày 3 tháng 11. Linda tăng cường trở lại ở vịnh Bengal, nhưng sau đó độ đứt gió theo chiều thẳng đứng mạnh đã làm nó tan biến trong ngày mùng 9.

Vào ngày 2 tháng 11, Linda tấn công mũi phía Nam Việt Nam, tỉnh Cà Mau, gây ra thiệt hại chưa từng có với 1.292 người thiệt mạng, phần lớn trong số đó là do chết đuối ở ngoài biển. Gần 80.000 ngôi nhà được báo cáo là đã bị phá hủy và 140.000 ngôi nhà khác bị hư hại nặng. Cơ sở hạ tầng (những con đường, trường học và bệnh viện) chứa hàng loạt những phần lúa bị ngập lụt. Những nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cơn bão là các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre và Vũng Tàu. Đây là cơn bão tồi tệ nhất tại khu vực này trong khoảng 100 năm trở lại đây. Thiệt hại vật chất ước tính 7 nghìn tỉ VNĐ (409 triệu USD).

Ở những nơi khác như Thái Lan và Philippines, tổng số người chết do Linda tăng lên do lũ lụt và sự tàn phá nặng nề của cơn bão.

Bão nhiệt đới Mort (Pining)

Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA đã theo dõi cơn bão từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 11, và họ đặt tên nó là Pining.

Bão Paka (Rubing)

Siêu bão cuối cùng trong năm hình thành trên khu vực Trung tâm Thái Bình Dương vào ngày 28 tháng 11. Di chuyển về phía Tây, hệ thống đã mạnh lên thành một cơn bão nhiệt đới trước khi vượt đường đổi ngày quốc tế trong ngày 7 tháng 12. Khi đó, điều kiện môi trường đã thuận lợi hơn một chút, và Paka duy trì là một cơn bão nhiệt đới đến ngày mùng 10. Năm ngày sau, Paka mạnh lên thành siêu bão, siêu bão thứ 11 trong năm. Ngày hôm sau nó đi qua Guam, và vào ngày 18 tháng 12, vận tốc gió của cơn bão đã tăng lên tới 185 dặm/giờ (295 km/giờ). Sau khi tiếp tục gây những thiệt hại lớn cho các nhóm đảo nhỏ hơn ở Tây Bắc Thái Bình Dương, Paka đã suy yếu nhanh chóng và tan trong ngày 22.

Ban đầu Paka tác động đến quần đảo Marshall, gây mưa lớn và thiệt hại là 80 triệu USD (USD 1997). Sau đó, nó đã di chuyển qua ngay sát phía Bắc Guam, gây gió mạnh phá hủy 1.500 ngôi nhà, làm 10.000 ngôi nhà khác bị hư hại; khiến 5.000 người mất nhà cửa, và gây tình trạng mất điện trên toàn hòn đảo. Tổng thiệt hại tại Guam là 500 triệu USD (USD 1997). Ngoài ra Paka cũng đã gây thiệt hại nhỏ tại quần đảo Bắc Mariana. Không có trường hợp thiệt mạng nào được báo cáo. Do những thiệt hại to lớn gây ra trên hàng loạt các đảo ở Tây Bắc Thái Bình Dương, cái tên Paka đã bị khai tử sau mùa bão và không bao giờ được sử dụng lại nữa.

Tên bão

Trong năm 1997, bão nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương được đặt tên bởi JTWC. Cơn bão đầu tiên được đặt tên là Hannah và cuối cùng là Mort.

Hai cơn bão Oliwa và Paka di chuyển vào khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương từ vùng trung tâm Thái Bình Dương. JMA đã cho chúng các số hiệu lần lượt là 9719 và 9728.

Tên bão ở Philippines

Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA sử dụng danh sách tên riêng của họ cho các xoáy thuận nhiệt đới nằm trong khu vực mà họ theo dõi. Danh sách dưới đây lặp lại với chu kỳ 4 năm. Đây là danh sách tên trùng với danh sách của mùa bão năm 1993.

Số hiệu tại Việt Nam

Ở Việt Nam một cơn bão (đạt cường độ bão nhiệt đới trở lên) sẽ được đặt số hiệu khi nó đi vào khu vực thuộc phạm vi theo dõi của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam được xác định trên Biển Đông phía Tây kinh tuyến 120°Đ và phía Bắc vĩ tuyến 10°B. Số hiệu của bão được đặt theo số thứ tự xuất hiện của nó trong năm.

Dưới đây là các cơn bão được Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Việt Nam đặt số hiệu trong năm 1997: (Kèm vùng đổ bộ)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997** không có giới hạn chính thức, nó trải dài suốt năm, bắt đầu từ 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 tháng 12. Tuy nhiên tháng
**Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997** là một mùa bão hoạt động rất mạnh, nguyên nhân bởi hiện tượng El Niño. Với hàng trăm người thiệt mạng cùng tổn thất hàng triệu USD,
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2016** là sự kiện mà các xoáy thuận nhiệt đới hoạt động ở khu vực phía tây bắc của Thái Bình Dương. Mùa bão này kéo dài suốt
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1996** không có giới hạn chính thức; nó diễn ra trong suốt năm 1996, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2017** là một sự kiện mà theo đó các xoáy thuận nhiệt đới hình thành ở vùng phía Tây Bắc của Thái Bình Dương trong năm 2017, chủ
**Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1998** không có giới hạn chính thức, nhưng hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng hình thành trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong khoảng
**Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 2015** được công nhận là mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương hoạt động mạnh thứ hai từng được ghi nhận; với kỷ lục 31 áp thấp nhiệt
**Bão Oliwa** là một trong số kỷ lục 11 cơn siêu bão của mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997. Oliwa hình thành trên vùng Trung tâm Thái Bình Dương; khu vực phía Tây
thumb|Quỹ đạo của tất cả các xoáy thuận nhiệt đới Đông Bắc Thái Bình Dương cấp 5 trên khu vực phía Đông [[đường đổi ngày quốc tế tính đến thời điểm kết thúc năm 2018.]]
**Bão Fengshen** là cơn bão mạnh nhất trong Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương năm 2002. Nó phát triển vào ngày 13 tháng 7 từ máng gió mùa gần Quần đảo Marshall và nhanh
**Bão Joan** năm 1997 là cơn bão giữ được cường độ siêu bão trong thời gian dài nhất tại thời điểm đó, vận tốc gió tối đa duy trì một phút luôn giữ ở mức
**Bão Keith** là siêu bão thứ 10 trong tổng số kỷ lục 11 cơn siêu bão của mùa bão hoạt động mạnh bất thường trên Tây Bắc Thái Bình Dương trong năm 1997. Hình thành
**Bão lớn Linda**, ký hiệu **14E-1997**, là cơn bão mạnh nhất ở Đông Bắc Thái Bình Dương từng được ghi nhận vào thời điểm đó; với sức gió và áp suất xuống tới . 18
**Bão Winnie**, còn được biết đến ở Philippines với tên gọi là Ibiang là siêu bão cuồng phong thứ tư của mùa bão năm 1997. Hình thành từ một vùng áp thấp lớn ở gần
**Bão nhiệt đới Linda**, được biết đến ở Philippines với tên gọi **Áp thấp nhiệt đới Openg**, được biết đến tại Việt Nam với tên gọi **cơn bão số 5** , là cơn bão thảm
**Bão Ivan**, được biết đến ở Philippines với tên gọi **Bão Narsing**, là một cơn bão rất mạnh cùng tồn tại song song với một cơn bão khác có cường độ tương tự trong tháng
nhỏ **Bão Patricia** () là cơn bão mạnh thứ hai trong lịch sử nhân loại (sau Bão Tip) và mạnh nhất ở Tây bán cầu từng ghi nhận. Đồng thời, Patricia còn trở thành cơn
thumb|Chỉ số dao động phương Nam chuỗi thời gian 1876–2023. **El Niño–Dao động phương Nam** (**ENSO**) là sự biến đổi có tính chu kỳ không đều của gió và nhiệt độ bề mặt biển trên
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
Cái tên **Ivan** từng được sử dụng để đặt tên cho ba xoáy thuận nhiệt đới ở Đại Tây Dương, một ở Tây Bắc Thái Bình Dương, một ở Tây Nam Ấn Độ Dương, và
**_Mặt trận Thái Bình Dương_** (tiếng Anh: **_The Pacific_**) là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2010 do HBO, Playtone và DreamWorks sản xuất, và được
**Bình Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tỉnh Bình Dương được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh lỵ của tỉnh
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Gấu đen Bắc Mỹ** (danh pháp hai phần: **_Ursus americanus_**) là một loài gấu kích thước trung bình có nguồn gốc ở Bắc Mỹ. Nó là loài gấu nhỏ nhất và phổ biến nhất của
**Đài Phát thanh – Truyền hình Bình Dương** là một đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đài có trụ sở tại số 46 Đại
**Cá voi vây** (_Balaenoptera physalus_), còn gọi là **cá voi lưng xám**, là một loài động vật có vú sống ở biển thuộc phân bộ cá voi tấm sừng hàm. Chúng là loài cá voi
Phân vùng bão và áp thấp nhiệt đới tại Việt Nam theo Quyết định 2901 năm 2016 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam **Việt Nam** là một quốc gia nằm ở khu
thumb|Đường đi của xoáy thuận nhiệt đới toàn cầu từ năm 1985 đến năm 2005, chỉ ra các khu vực mà xoáy thuận nhiệt đới thường phát triển **Sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới**
**Tokelau** (; trước đây được gọi là **Quần đảo Liên minh** (), và cho đến năm 1976 được gọi chính thức là **Quần đảo Tokelau**) là một lãnh thổ phụ thuộc của New Zealand nằm
[[Đảo Unalaska trong Quần đảo Aleut]] **Quần đảo Aleut** (có thể là từ tiếng Chukchi _aliat_ có nghĩa là "đảo") là một chuỗi đảo gồm hơn 300 đảo núi lửa tạo thành một vòng cung
Rạn san hô vòng Midway Điểm chiếu trực giao Midway trên địa cầu **Rạn san hô vòng Midway** (; còn gọi là **đảo Midway** hay **quần đảo Midway**; tiếng Hawaii: _Pihemanu Kauihelani_) là một rạn
**Bão Claudette** là cơn bão nhiệt đới thứ ba và là cơn bão đầu tiên của mùa bão Đại Tây Dương năm 2003. Một cơn bão Đại Tây Dương kéo dài vào tháng Bảy, bão
**Đảo Macquarie** là một hòn đảo nằm ở tây nam Thái Bình Dương, giữa New Zealand và Nam Cực. Nó thuộc lãnh thổ của tiểu bang Tasmania của Úc kể từ năm 1900 và là
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
**Điện ảnh Thái Lan** khởi nguồn từ nền điện ảnh những ngày đầu, khi chuyến viếng thăm đến Bern, Thụy Sĩ của vua Chulalongkorn vào năm 1897 được François-Henri Lavancy-Clarke ghi hình lại. Bộ phim
**Dừa** (_Cocos nucifera_) là một loài thực vật thân gỗ, thành viên thuộc họ Cau (Arecaceae) và là loài duy nhất còn sống thuộc chi _Cocos._ Dừa có mặt khắp nơi tại các vùng nhiệt
**Bắc Bộ** (hay còn gọi là **miền Bắc**) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ). Dân cư Bắc Bộ tập trung đông tại Đồng
**Quần đảo Solomon** (tiếng Anh: **Solomon Islands**) là một quốc đảo của người Melanesia, nằm ở phía Đông Papua New Guinea, bao gồm gần một ngàn đảo nhỏ trải dài trên một diện tích khoảng
**Bắc Giang** là một tỉnh cũ thuộc trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích
**Tập Cận Bình** (giản thể: 习近平; phồn thể: 習近平; bính âm: _Xí Jìnpíng_; phát âm: [ɕǐ tɕînpʰǐŋ], sinh ngày 15 tháng 6 năm 1953) là một chính trị gia người Trung Quốc. Ông hiện đang
Dưới đây là danh sách tên các bão nhiệt đới nói riêng và xoáy thuận nhiệt đới nói chung. Có 7 khu vực có tên bão nhiệt đới. ## Sơ lược lịch sử Bão được
**Trận Hồng Kông** (8-25 tháng 12 năm 1941), được biết đến với tên gọi là **Phòng thủ Hồng Kông** hay **Hồng Kông thất thủ** là một trong những trận đánh đầu tiên của Chiến tranh
thumb|Chiếc đuôi đen nổi bật của loài hươu này **Hươu đuôi đen** (tiếng Anh: _black-tailed deer_ hoặc _blacktail deer_) (danh pháp ba phần: _Odocoileus hemionus columbianus_) là một phân loài của hươu la (Odocoileus hemionus).
**Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha** là xung đột quân sự giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ xảy ra từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1898 liên quan đến vấn đề về
**Quần đảo Samoa** là một quần đảo có diện tích 3.030 km² ở trung tâm Nam Thái Bình Dương, là một phần của khu vực Polynesia. Dân số trên quần đảo này khoảng 250.000 người, sử
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Hải Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc
thế=|200x200px
Trạng thái bình thường Thái Bình Dương: gió xích đạo đem nước ấm thổi hướng về phía tây, nước lạnh vọt ra lên trên ở
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là