✨Địa lý châu Á

Địa lý châu Á

Địa lý châu Á được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển và đại dương, mà còn bởi nhiều đặc điểm tự nhiên độc đáo khác: một châu lục có kích thước vĩ đại nhất, khoảng 44,4 triệu km², có lịch sử phát triển và cấu tạo địa chất phức tạp nhất, có địa hình bề mặt bị chia cắt mạnh nhất và có sự phân hóa cảnh quan, khí hậu vô cùng phong phú, đa dạng: từ băng giá vĩnh cửu, rừng lá kim cho tới hoang mạc khô cằn, rừng rậm nhiệt đới xanh um. Với sự phối hợp của các điều kiện tự nhiên nói trên, châu Á đã hình thành các khu vực địa lý tự nhiên có đặc điểm hoàn toàn khác nhau như Bắc Á, Trung Á, Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á và Tây Nam Á (Tây Á).

Vị trí địa lý

Châu Á là khối lục địa khổng lồ nằm hoàn toàn trên bán cầu Bắc (chỉ có một số đảo kéo dài xuống bán cầu Nam) và chiếm một không gian rất rộng. Điểm cực Bắc là mũi Seliusky trên bán đảo Taymyr thuộc Nga ở vĩ tuyến 77°44' Bắc. Điểm cực Nam là mũi Piai trên bán đảo Mã Lai ở vĩ tuyến 1°16' Bắc. Từ Bắc xuống Nam của châu Á kéo dài hơn 76 vĩ tuyến, tức là khoảng 8500km. Điểm cực Tây của châu Á là mũi Baba trên bán đảo Tiểu Á thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ở tọa độ 26°4' Đông, và điểm cực Đông là mũi Dezhnev trên bán đảo Chukostki thuộc Nga ở kinh tuyến 169°40' Đông. Nếu tính cả các đảo hoặc quần đảo thì điểm cực Bắc của châu Á lên tới tận 81°13' trên đảo Komsomolets thuộc Liên bang Nga, còn điểm cực Nam xuống tới tận đảo Dana thuộc Indonesia.Chiều rộng từ bờ Tây đến bờ Đông nơi lãnh thổ rộng nhất là 9200 km

Về hình dạng, nếu so với các châu lục khác trên thế giới thì đại lục Á-Âu nói chung và châu Á nói riêng có bề mặt dạng hình khối vĩ đại nhất. Trừ phía Tây của đại lục Á-Âu tức châu Âu được kéo dài ra tựa như một bán đảo lớn thì phần phía Đông lục địa, trái lại là một khối khổng lồ. Ở phần này đường bờ biển tuy bị chia cắt mạnh, có nhiều vịnh biển, nhiều bán đảo lớn song do diện tích lục địa rất rộng nên sự chia cắt lãnh thổ theo chiều ngang như vậy xem ra không đáng kể. Phần lục địa có dạng hình khối điển hình, nhất là các bộ phận nằm giữa vĩ tuyến 20° Bắc và 70° Bắc, làm cho các vùng trung tâm của lục địa như Trung Á và Nội Á nằm cách bờ biển rất xa, có nơi đến 2500 km. Những điều kiện về vị trí địa lý như vậy đã có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành khí hậu và cảnh quan tự nhiên trên châu lục.

Về mặt giới hạn, châu Á kéo dài từ vùng cực bắc đến vùng Xích đạo, tiếp giáp với 2 châu lục tính trên đất liền và 3 đại dương, châu Á tiếp giáp 5 châu lục tính luôn trên biển và 4 đại dương rộng lớn. Các châu lục đó là châu Phi ở phía Tây Nam, châu Âu ở phía Tây Bắc, châu Úc ở phía Đông Nam và Bắc Mỹ thuộc châu Mỹ ở phía Đông Bắc. Trong 4 châu trên thì châu Phi được nối liền với châu Á bởi eo đất Suez (đã bị cắt đứt bởi kênh đào Suez), còn các mặt Bắc, Đông và Nam đều tiếp giáp với các đại dương, theo thứ tự là Bắc Băng Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Thuộc phạm vi mỗi đại dương, ven theo bờ lục địa thường có các biển nhỏ được phân cách với đại dương bởi các bán đảo, đảo và quần đảo.

  • Phía Bắc tiếp giáp với Bắc Băng Dương. Dọc theo bờ có các biển như Laptev, Chuckchi. Hầu hết đều nằm trên thềm lục địa với độ sâu không quá 300 m. Bắc Băng Dương nằm trên các vĩ độ cực và cận cực nên thời tiết quanh năm giá buốt, mặt biển bị bao phủ bởi một lớp băng rất dày, tựa như một sân trượt băng khổng lồ. Điều kiện đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành khí hậu, cảnh quan tự nhiên cũng như đời sống và hoạt động kinh tế của con người ở phần phía Bắc châu lục.

Khu vực Đông Nam Á với các đảo và vùng biển quan trọng

  • Phía Đông châu Á giáp với Thái Bình Dương. Dọc theo bờ Tây Thái Bình Dương, đáy biển có cấu trúc rất phức tạp, tạo thành nhiều biển, phân cách với đại dương bởi nhiều đảo, chuỗi đảo hình vòng cung. Các biển quan trọng nhất là Bering, Okhotsk, Nhật Bản, Hoàng Hải và Hoa Đông. Các biển này phân cách với nhau và đại dương bởi các bán đảo Kamchatka, Triều Tiên, các quần đảo Aleutian, Kuril, Ryukyu cùng các đảo Sakhalin, Đài Loan... Dọc theo bờ Đông các vòng cung đảo của Đông Á là các vực biển hẹp và rất sâu như Kuril (10.549 m), Nhật Bản (9764 m), Marian (11.034 m), Ryukyu (7507 m) và Philipines (10.497 m)

Đới khí hậu cực

Thuộc phạm vi đới này có các đảo, quần đảo và một dải hẹp dọc theo duyên hải phía Bắc lục địa. Giới hạn phía Nam gần trùng với đường vĩ tuyến 71° Bắc. Do vị trí nằm trên những vĩ độ cao nên quanh năm thống trị khối khí cực khô và lạnh nên về mùa đông, ở đây có đêm địa cực kéo dài (từ 75° Bắc trở lên, đêm cực kéo dài hơn 98 ngày), nhiệt độ rất thấp. Nhiệt độ trung bình tháng 1 xuống tới -34 °C trên bán đảo Taymyr. Về mùa đông thường có gió mạnh và bão tuyết, thời tiết rất giá buốt. Về mùa hạ trái lại có ngày liên tục kéo dài (từ 75° Bắc trở lên, ngày liên tục có 102 ngày) song do cường độ bức xạ yếu nên nhiệt độ mùa hạ ở đây vẫn thấp. Nhiệt độ trung bình tháng ấm nhất vẫn không thể vượt quá 5 °C. Mùa hạ thường có gió Bắc, thời tiết lạnh, hay có sương mù hoặc mưa tuyết. Lượng mưa trung bình năm 100–200 mm.

Đới khí hậu cận cực

Đới khí hậu cận cực tạo thành một dải hẹp nằm ở phía Nam đới khí hậu cực. Giới hạn của đới này gần trùng với vòng cực Bắc. Trong đới này có sự thay đổi khối khí theo mùa: mùa đông là khối khí cực lục địa, còn mùa hạ là khối khí ôn đới ấm và ẩm hơn. Thời tiết giữa hai mùa phân biệt khá rõ rệt. Mùa đông rất lạnh, nhất là các vùng nằm sâu trong lục địa do sự biến tính của gió thổi từ Đại Tây Dương. Nhiệt độ trung bình tháng thay đổi từ -40 °C đến -50 °C ở vùng Trung và Đông Siberi. Màu hạ tương đối ấm, nhiệt độ trung bình tháng có thể vào khoảng 8-10 °C. Đới khí hậu cận cực có thể chia thành 3 kiểu khác nhau: Khí hậu cận cực hải dương ở phía Tây có mùa đông tương đối dịu, mùa hạ mát và ẩm ướt; Khí hậu cận cực lục địa có mùa đông rất lạnh và biên độ nhiệt giữa hai mùa lớn nhất trên Trái Đất; Khí hậu cận cực hải dương phía Đông tương tự như ở phía Tây nhưng có mùa đông lạnh hơn và thường có gió Bắc hoặc Đông Bắc, còn mùa hạ có gió Đông Nam.

Đới khí ôn đới

Đới khí hậu ôn đới chiếm một dải rộng nhất. Đường ranh giới phía Nam của đới thay đổi trong khoảng 40° Bắc ở Trung Á đến 35° Bắc ở phía Triều Tiên, Nhật Bản. Trên toàn đới, tuy quanh năm chịu ảnh hưởng của khối khí ôn đới nhưng khí hậu có thay đổi từ Tây sang Đông, vì vậy có thể chia ra làm 3 kiểu chính:

  • Kiểu khí hậu ôn đới lục địa hình thành trong vùng trung tâm lục địa bao gồm khu vực dãy Ural và Đại Hưng An. Trong khu vực này, quanh năm thống trị khối khí ôn đới lục địa, mùa đông rất khô và lạnh, còn mùa hạ ấm và ẩm hơn phía Bắc, tương đối khô nóng ở phía Nam. Nhiệt độ trung bình tháng 1 thay đổi từ -4 °C trên thảo nguyên Trung Á đến -50 °C ở các vùng Siberi. Còn tháng 7, nhiệt độ thay đổi từ 15 °C ở phía Bắc đến 28 °C ở phía Nam. Mưa rơi chủ yếu vào mùa hạ nhưng lượng giảm dần theo hướng từ Bắc xuống Nam. Một dải rộng nằm ở phía Nam khu vực này kéo dài từ Trung Á đến Mông Cổ là vùng khô hạn nhất, lượng mưa hằng năm không quá 250 mm.
  • Kiểu khí hậu ôn đới gió mùa hình thành trong miền duyên hải phía Đông, gồm lưu vực sông Amur và đảo Sakhalin. Về mùa đông, có gió Tây Bắc thổi từ lục địa ra khô và rất lạnh, còn về mùa hạ có gió Đông Nam từ biển thổi vào ấm và ẩm ướt. Mưa rơi chủ yếu vào mùa hạ, chiếm 60-70% lượng mưa cả năm. Ngoài ra, về mùa hạ thỉnh thoảng còn có bão từ phía Đông Nam xâm nhập lên làm cho thời tiết nhiễu loạn mạnh. Nhiệt độ trung bình tháng 1 từ -25 °C ở phía Bắc đến -15 °C ở phía Nam. Nhiệt độ trung bình tháng 7 từ 15-20 °C. Lượng mưa trung bình năm từ 500–700 mm.
  • Kiểu khí hậu ôn đới hải dương chiếm phần Đông Bắc biển Okhotsk, bán đảo Kamchatka và quần đảo Kuril. Kiểu khí hậu này chịu ảnh hưởng mạnh từ biển, Hải lưu Kuril-Kamchatka lạnh và đặc biệt là hoạt động của khí xoáy trên biển Okhotsk và biển Bering. Về mùa đông ở đây chủ yếu có gió Bắc và Tây Bắc, còn mùa hạ có gió Nam và Đông Nam. Điều kiện khí hậu ở đây có sự thay đổi từ Bắc xuống Nam. Về mùa hạ mát và ẩm, nhiệt độ trung bình tháng 7 10-18 °C, mùa đông từ -10 °C đến -20 °C. Lượng mưa trung bình năm từ 700–900 mm, lớp tuyết phủ về mùa đông dày hơn 100 cm.

Đới khí cận nhiệt đới

Đới khí hậu cận nhiệt đới chiếm một dải khá rộng, từ bờ Địa Trung Hải đến bờ Thái Bình Dương, có thể chia thành 4 kiểu chính như sau:

  • Kiểu khí hậu cận nhiệt Địa Trung Hải hình thành trong khu vực bán đảo Tiểu Á, sơn nguyên Armenia, các vùng thuộc Syria, Iraq... Điểm nổi bật của kiểu khí hậu này là mùa hạ khô và nóng, thời tiết ổn định và trong sáng, còn mùa đông trái lại do ảnh hưởng của gió Tây và hoạt động của khí xoáy nên thời tiết hay thay đổi, mát dịu và mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình tháng 1 4-12 °C, tháng 7 25-28 °C. Lượng mưa trung bình năm từ 500–700 mm.
  • Kiểu khí hậu cận nhiệt lục địa hình thành trong các miền nội địa, bao gồm phần Nam các đồng bằng Trung Á, Nội Á và các vùng thuộc sơn nguyên Iran. Ở đây về mùa hạ chịu ảnh hưởng của khối khí nhiệt đới lục địa khô và nóng, nhiệt độ trung bình tháng 7 lên tới 30 °C, độ ẩm tương đối thấp và mưa rất hiếm. Về mùa đông do hoạt động của khí xoáy trên frong ôn đới nên có mưa, nhiệt độ thấp. Ở Tehran có năm nhiệt độ xuống thấp tới -20 °C, còn ở Trung Á tới -30 °C. Nhiệt độ trung bình tháng 1 ở các khu vực này thường từ -1 đến 0 °C. Lượng mưa hằng năm không đáng kể, 100–300 mm.
  • Kiểu khí hậu cận nhiệt núi cao là một biến dạng đặc biệt của kiểu khí hậu cận nhiệt lục địa, hình thành trên các sơn nguyên và núi cao 3500–4000 m trở lên, chủ yếu ở Pamir và Tây Tạng. Khí hậu vẫn mang tính chất lục địa khá rõ rệt: mùa đông rất lạnh và khô, mùa hạ mát. Biên độ nhiệt giữa các mùa lớn, thời tiết trong ngày luôn luôn thay đổi, nhất là ở Tây Tạng. Lượng mưa trung bình hằng năm rất ít, vì thế các vùng núi và sơn nguyên cao phần lớn là hoang mạc núi cao.
  • Kiểu khí hậu cận nhiệt gió mùa chiếm phần phía Đông lãnh thổ Trung Quốc, phía Nam bán đảo Triều Tiên và Nam Nhật Bản. Đặc điểm của kiểu khí hậu này đối lập với kiểu cận nhiệt Địa Trung Hải. Ở đây, mùa hạ có gió Đông Nam thổi từ biển vào, thời tiết nóng và mưa nhiều. Lượng mưa mùa hạ chiếm tới 60-75% lượng mưa cả năm. Về mùa đông có gió Tây Bắc từ lục địa thổi ra, nói chung khô và lạnh, tuy nhiên còn nhờ hoạt động của khí xoáy nên thỉnh thoảng vẫn có mưa. Lượng mưa trung bình năm 1000–15000 mm, đây là miền khí hậu ẩm ướt nhất của đới khí hậu cận nhiệt.

Đới khí nhiệt đới

Ở châu Á, đới khí hậu nhiệt đới không tạo thành một dải liên tục mà chỉ chiếm phần Tây Nam châu Á bao gồm bán đảo Ả Rập, phần Nam sơn nguyên Iran cho tới Tây Bắc Ấn Độ. Trong các khu vực này quanh năm thống trị khối khí nhiệt đới lục địa và gió mậu dịch, vì thế mùa hạ rất khô và nóng còn mùa đông khô và hơi lạnh. Lượng mưa hằng năm rất ít, trung bình không có 100 mm ở vùng đồng bằng và 300–400 mm ở miền núi. Do không khí khô nên khả năng bốc hơi lớn gấp hàng chục lần khả năng mưa, gây nên tình trạng thiếu ẩm gay gắt. Điều kiện khí hậu ở đây tương tự như Sahara ở châu Phi. Nhiệt độ trung bình tháng 7 thay đổi từ 28 °C đến 30 °C, tháng 1 từ 12 °C ở phía Bắc đến 20 °C ở phía Nam. Biên độ nhiệt giữa các mùa, ngày và đêm rất lớn.

Đới khí hậu cận xích đạo

Đới khí hậu cận xích đạo (hay gió mùa xích đạo) bao gồm khu vực Nam Á (Ấn Độ, Bangladesh, Bắc Sri Lanka), bán đảo Trung Ấn, Nam Trung Quốc và quần đảo Philippines. Như vậy, so với các châu lục khác thì ở châu Á, đới khí hậu này dịch lên những vĩ độ cao hơn, đồng thời ở phía Bắc, nó chuyển sang đới khí hậu cận nhiệt và mất hẳn đới khí hậu nhiệt đới. Trong đới khí hậu cận xích đạo về mùa hạ có gió mùa từ biển thổi vào, nóng, ẩm ướt và có mưa nhiều. Ngoài ra, thường có bão xâm nhập làm cho thời tiết nhiễu loạn mạnh và có mưa lớn. Do ảnh hưởng của địa hình nên sự phân bố mưa không đều: trên các sườn đón gió, mưa trung bình từ 2000–4000 mm hoặc hơn, còn trên đồng bằng, từ 1000–200 mm. Nói chung đây là nơi mưa nhiều nhất châu lục. Về mùa đông có gió mùa Đông Bắc từ lục địa thổi ra, thời tiết nhìn chung khô ráo. Tuy nhiên, như phần hoàn lưu khí quyển đã nói ở trên, về mùa này ở Bắc Ấn Độ, phía Bắc bán đảo Trung Ấn thời tiết tương đối lạnh và có mưa do ảnh hưởng của khí xoáy, chỉ có phần Nam các bán đảo này tương đối nóng, thời tiết khô và trong sáng.

Đới khí hậu xích đạo

Đới khí hậu này bao gồm phần Nam đảo Sri Lanka, phần Nam bán đảo Mã Lai và phần lớn quần đảo Indonesia. Với vị trí nằm trên các đảo và bán đảo, biên độ nhiệt giữa các mùa thấp hơn và lượng mưa trung bình hằng năm cao hơn vùng xích đạo ở lục địa Phi. Biên độ nhiệt hằng năm ở đây 1-2 °C, còn lượng mưa trung bình đạt tới 2000–4000 mm. Riêng khu vực từ nửa Đông đảo Java trở về phía Đông thuộc đới khí hậu gió mùa xích đạo của bán cầu Nam nên đặc điểm khí hậu mang tính chất mùa rõ rệt.

Thủy văn

Đặc điểm chung về sông ngòi

Ở châu Á có nhiều hệ thống sông lớn vào bậc nhất thế giới, hằng năm các sông đổ ra biển một khối lượng nước khổng lồ. Sự phát triển của các hệ thống sông lớn đó là do lục địa có kích thước rộng lớn, đồng thời các núi và sơn nguyên cao lại tập trung ở vùng trung tâm, có băng hà phát triển, là nơi bắt nguồn của nhiều con sông. Các sông chảy qua các sơn nguyên và đồng bằng rộng, có khí hậu ẩm ướt nên thuận lợi cho việc hình thành các con sông lớn. Tất cả các con sông lớn như Hoàng Hà, Dương Tử, Hắc Long Giang, Mê Kông, Ấn, Hằng đều hình thành trong các điều kiện như vậy.

Phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, sự phân bố mạng lưới sông và chế độ sông trên lục địa không đều. Ở các vùng có mưa nhiều thì mạng lưới sông ngòi phát triển, các sông có nhiều nước và đầy nước quanh năm. Trái lại, ở các vùng khô hạn như Trung Á, Nội Á và bán đảo Ả Rập thì mang lưới sông rất thưa thớt, thậm chí có những nơi không có dòng chảy. Ở châu Á, lưu vực nội lưu chiếm một diện tích rất rộng tới 18 triệu km², bằng khoảng 41,3% diện tích châu lục.

Về chế độ sông phụ thuộc vào chế độ mưa và nguồn nước cung cấp có thể phân chia thành mấy kiểu chính sau:

  • Sông chảy trong các miền khí hậu xích đạo và ôn đới hải dương có nguồn cung cấp nước chủ yếu do mưa. Ở đây, lượng mưa phân bố đều quanh năm nên sông có nhiều nước và đầy nước thường xuyên.
  • Sông chảy trong các miền khí hậu gió mùa, có mưa chủ yếu vào mùa hạ nên nước sông lớn vào hạ-thu và cạn vào đông-xuân. Sông Hồng tại miền Bắc Việt Nam thuộc kiểu chế độ này.
  • Sông chảy trong miền cận nhiệt Địa Trung Hải có mưa về mùa đông nên nước sông lớn vào mùa đông và khô cạn vào mùa hạ,
  • Sông chảy trong miền khí hậu cận cực, ôn đới lục địa, có nguồn cung cấp nước chủ yếu vào mùa xuân do tuyết tan và mưa vào xuân-hạ nên nước lớn vào cuối mùa xuân và đầu mùa hạ. Về mùa đông, các sông đóng băng trong một thời gian dài.
  • Các sông chảy trong miền khí hậu khô hạn, nguồn cung cấp nước chủ yếu do tuyết và băng tan từ núi cao nên có nước lớn vào cuối mùa xuân, đầu mùa hạ và lưu lượng giảm dần về hạ lưu.

Các lưu vực sông

**Đặc điểm một số lưu vực sông ở châu Á** cũng bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng, sau đó chảy qua bồn địa Tứ Xuyên, qua miền Hoa Trung rồi đổ ra biển. Trường Giang tuy chảy trong đới khí hậu cận nhiệt gió mùa tương tự như Hoàng Hà nhưng lại là dòng sông có nhiều nước và chế độ nước tương đối điều hòa. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do ở lưu vực Trường Giang ngoài tuyết và băng tan từ trên núi, mưa gió về mùa hạ, về mùa đông sông nó còn nhận được nước do hoạt động của khí xoáy. Dòng sông quanh năm đầy nước, việc giao thông do vậy rất thuận lợi. Trên thực tế Trường Giang còn là con sông có giá trị giao thông quan trọng nhất của Trung Quốc. Ngoài ra, sông còn có giá trị tưới ruộng và khai thác thủy điện. Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng đập Tam Hiệp, đập thủy điện lớn nhất thế giới, đồng thời cũng đang xây dựng công trình chuyển nước của Trường Giang về phía Bắc để cung cấp cho các vùng phía Bắc đang ngày càng thiếu nước.

Chế độ nước của các sông trên bán đảo Trung Ấn phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ mưa gió mùa xích đạo. Mực nước lớn nhất thường vào cuối mùa hạ và cạn nhất vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Những năm có mưa bão lớn, các sông dễ gây ra lũ lụt. Sông Mê Kông là con sông lớn nhất trên bán đảo Trung Ấn. Sông bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng, dài 4500 km. Nguồn cung cấp nước chủ yếu do mưa gió mùa về mùa hạ và tuyết, băng tan từ thượng nguồn xuống. Mực nước sông tuy thay đổi theo hai mùa rất rõ nhưng phần hạ lưu nhờ có hồ Tonlé Sap điều tiết nên về mùa cạn nước sông còn khá lớn. Lưu lượng trung bình ở cửa sông là hơn 15.000 km³/s, thời kỳ lũ là 30.000 km³/s và thời kỳ cạn nhất là 1500 km³/s. Ở hạ lưu sông bồi thành một châu thổ rộng tới 70.000 km². Sông Mê Kông từ lâu đã trở thành con đường giao thông của nhiều nước như Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Trong tương lai, việc khai thác thủy điện, sử dụng nước tưới và đánh cá sẽ được phát triển, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với kinh tế các nước trong khu vực.

Vùng quần đảo Mã Lai nằm trong miền xích đạo nóng và ẩm ướt quanh năm, có mạng lưới sông dày đặc và chế độ nước sông rất điều hòa. Các sông có nhiều nước quanh năm, mực nước chênh lệch giữa mùa cạn và mùa lũ không đáng kể. Tuy nhiên do địa thế hẹp, các đảo có nhiều núi non hiểm trở nên các sông thường ngắn và có nhiều thác ghềnh. Các sông không thuận tiện cho giao thông nhưng có nhiều tiềm năng về thủy điện.

Lưu vực Ấn Độ Dương

Lũ lụt năm [[2004 làm ngập đường phố của thủ đô Dhaka, Bangladesh.]] Lưu vực này gồm các sông thuộc Tây Nam Á, Nam Á và phần Tây bán đảo Trung Ấn. Ở Tây Nam Á, mạng lưới sông rất thưa thớt trong đó nhiều vùng rộng không có dòng chảy thường xuyên. Có hai sông khu vực này là Euphrates và Tigris chảy từ sơn nguyên Armenia xuống. Nhờ nguồn nước tuyết và mưa trên núi phong phú mới có thể vượt qua vùng đồng bằng Lưỡng Hà khô hạn để ra vịnh Persian. Các sông có hai thời kỳ nước lớn, một vào mùa xuân do tuyết tan trên núi và một vào mùa đông do mưa trên đồng bằng. Mùa hạ khô và nóng, nước bốc hơi mạnh nên mực nước rất thấp và lưu lượng càng về hạ lưu thì càng giảm dần. Các sông có vai trò trong việc tưới ruộng, cung cấp nước cho nhân dân trong khu vực, giao thông và thủy điện.

Các sông thuộc những lưu vực còn lại đều chịu ảnh hưởng của chế độ mưa gió mùa nên chế độ tương tự như các sông ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Các sông đáng chú ý nhất là Ấn, Hằng, Brahmaputra và Salween. Sông Hằng là con sông lớn có giá trị về kinh tế hàng đầu của Ấn Độ. Lưu lượng trung bình năm ở cuối trung lưu đã lên tới 12.105 km³/s. Các sông của lưu vực này có giá trị quan trọng trong tưới ruộng, cung cấp nước cho sản xuất công nghiệp, đời sống nhân dân và giao thông vận tải. Tuy nhiên hằng năm trên các con sông vẫn thường xảy ra lũ lột dữ dội cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người dân, nhất là tại Bangladesh.

Lưu vực nội lưu

Gồm các sông chảy trong miền Trung Á, Nội Á và sơn nguyên Iran. Các vùng này tuy thuộc đới khí hậu khô, lượng mưa hằng năm không đáng kể song các sông tồn tại được là nhờ có nguồn tuyết và băng tan từ trên núi cao cung cấp. Các sông lớn nhất là Syr Darya và Amu Darya, bắt nguồn từ vùng núi cao Thiên Sơn, Pamir rồi chảy qua các hoang mạc cát Trung Á và đổ vào hồ Aral, sông Ili đổ vào hồ Balkhash. Một số sông như Murghab thì cạn dần khi đổ vào các hoang mạc cát. Các sông ở khu vực nội lưu đều có nước lớn vào cuối mùa xuân và mùa hạ, nhưng lưu lượng của chúng giảm dần từ nguồn đến hạ lưu. Các sông thuộc lưu vực này là nguồn nước vô cùng quý giá cho đời sống của cư dân, cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thông và thủy điện.

Các hồ

nhỏ|Biển hồ Caspi nhìn từ [[vệ tinh.]] Ở châu Á có khá nhiều hồ trong đó có các hồ lớn và sâu nhất thế giới. Đa số các hồ lớn lại không nằm trong vùng khí hậu ẩm ướt mà lại phân bố trong các vùng khô hạn như Tiểu Á, Trung Á và Nội Á. Hầu hết các hồ có nguồn gốc kiến tạo nên có độ sâu lớn, một số hồ còn có mực nước thấp hơn mực nước biển.

Các hồ các quan trọng nhất là Caspi (371.000 km², sâu 995 m, mức nước thấp hơn mực nước đại dương 28 m), Aral (66.458 km², sâu 68m). Hai hồ có kích thước rất lớn nên người ta thường gọi là "biển" hay "biển hồ". Hiện nay hồ Aral bị thu hẹp diện tích rất nhiều do việc xây dựng các kênh đào để lấy nước tưới cho các vùng hoang mạc Trung Á. Sự thu hẹp diện tích các hồ đã gây ra sự khủng hoảng sinh thái lớn, làm cho sản xuất và đời sống của cư dân các vùng đồng bằng xung quanh hồ bị thiệt hại nặng. Một số hồ khác như Balkhash (22.000 km², sâu 26,5m), Issyk Kul (6.200 km, sâu 702m), Hồ Chết (1000 km², sâu 747m, thấp hơn mực nước biển 392m)... là những hồ mặn. Hồ Baikal nằm ở phía Nam vùng Trung Siberi là hồ sâu nhất thế giới (31.500 km², sâu 1620m) , đây là hồ nước ngọt trong lành, chứa tới 20% tổng lượng nước ngọt trên Trái Đất , có phong cảnh thiên nhiên đẹp, có ý nghĩa cả về kinh tế và bảo vệ tự nhiên.

**Một số hồ lớn ở châu Á**, mật độ trung bình (không tính phần dân cư thuộc liên bang Nga) là 124 người/km² hoặc 86,1 người/km² (nếu tính cả Nga). Tuy nhiên sự phân bố dân cư trên châu lục rất không đồng đều. Có một số nước mật độ dân cư rất cao như Nhật Bản: 336,1, Ấn Độ: 341,2, Bangladesh: 1.045, Singapore: 6425,3. Trong khi đó nhiều khu vực dân cư vô cùng thưa thớt như Mông Cổ: 1,7, Kazakhstan: 5,7, Ả Rập Xê Út: 12. Đặc biệt, ở nhiều vùng rộng lớn như Bắc Siberi, sơn nguyên Tây Tạng, bồn địa Tarim... hầu như không có người ở. Sự phân bố dân cư nói trên cho ta hiểu được điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn đối với các vùng đó.

Về sự gia tăng dân số, đại bộ phận các nước châu Á có tỉ lệ gia tăng tự nhiên khá cao. Theo số liệu thống kê năm 2005, tỉ lệ gia tăng dân số của châu Á là 1,3%, trong khi đó ở một số nước thì tỉ lệ đó rất cao như Pakistan: 2,4%, Yemen: 3,3%, Palestin: 3,5%...

Về trình độ đô thị hóa, nhìn chung không đều giữa các nước. Nếu tính về số lượng các đô thị lớn thì châu Á đứng đầu thế giới. Có 15 thành phố trên 15 triệu dân và hơn 100 thành phố có số dân trên 1 triệu người, song tỉ lệ dân sống ở đô thị ở châu Á chỉ mới đạt 50%.

Các quốc gia và vùng lãnh thổ

Bản đồ hành chính châu Á (chỉ có ranh giới quốc gia chứ không có tên nước)

Tình hình sử dụng tài nguyên

Một trung tâm nông nghiệp phát triển ở khu vực [[Lưỡng Hà.]] Hơn bất cứ một châu lục nào khác trên Trái Đất, châu Á có điều kiện tự nhiên đa dạng và nguồn tài nguyên thiên nhiên thế giới. Với điều kiện đó, châu Á là cái nôi hình thành phần lớn các chủng tộc loài người đầu tiên, là nơi xuất hiện các nền văn minh sớm nhất thế giới. Chính do quá trình phát triển đó mà thiên nhiên trên châu Á được con người khai phá và sử dụng sớm nhất. Trong quá trình khai phá và sử dụng thiên nhiên, tổ tiên của các dân tộc sống trên châu lục này đã thuần hóa được hàng loạt các cây trồng và vật nuôi, làm cho nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển không ngừng. Bởi vậy, ngay từ thời cổ đại, nhiều trung tâm nông nghiệp lớn được hình thành và cũng từ đó, hình thành các trung tâm phát sinh cây trồng của thế giới. Theo các tài liệu, trong số 10 trung tâm phát sinh cây trồng của thế giới thì có đến 6 trung tâm nằm trên châu Á, phù hợp với các vùng có nền văn minh phát triển sớm. Đó là các vùng Địa Trung Hải với lúa mì, yến mạch, đậu Hà Lan, bạc hà, nguyệt quế, ôliu và một số cây thực phẩm như bắp cải, tỏi tây, hành tây...; vùng Tiền Á gắn liền với các quốc gia cổ đại như Sumer, Assyria cùng các loại lúa mì, đại mạch, hạnh nhân, thuốc phiện, hồi hương, cà rốt...; vùng Trung Á với lúa mì, đậu xanh, cây ăn quả như lê, nho, táo...; vùng Ấn Độ với những cây trồng nhiệt đới như lúa gạo, đậu ván, cà tím, dưa chuột, mía, thốt nốt, cam, quýt...; vùng Đông Nam Á là quê hương của các loại cây ăn quả nhiệt đới như chuối, mít, bưởi, sầu riêng, măng cụt, dừa... đồng thời cũng là trung tâm phát sinh cây lúa gạo; vùng Trung Quốc được cho rằng là trung tâm nông nghiệp cổ đại lớn nhất thế giới với nhiều loài cây trồng phong phú bao gồm cả cây nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới.

Như vậy, giới thực vật tự nhiên được con người phát hiện, sử dụng và thuần hóa ở một mức độ cao. châu Á còn cung cấp cho thế giới hầu hết các loại vật nuôi cơ bản hiện nay như trâu, bò, lợn, gà, chó, mèo... Tổ tiên của các dân tộc trên châu Á đã tìm ra những biện pháp tốt nhất để sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên như làm ruộng bậc thang, tưới nước, giữ nước với các công trình cấp nước, dẫn nước và chọn gieo trồng lúa nổi trong các đầm lầy bị ngập nước sâu vào mùa lũ. Những biện pháp trên có tác dụng tích cực trong việc sử dụng và bảo nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên do quá trình khai thác lâu dài và thiếu cơ sở khoa học, ở nhiều vùng thiên nhiên bị cạn kiệt và thậm chí không còn khả năng sử dụng được nữa như các vùng núi Tây Nam Á, Ấn Độ, Trung Quốc... Cho đến nay, tài nguyên rừng ở nhiều nước gần như cạn kiệt hoàn toàn. Ví dụ, độ che phủ rừng ở Tây Nam Á nay chỉ còn 1,6%, ở Trung Quốc không đầy 10% trong khi độ che phủ rừng trung bình của thế giới là 32%.

Việc khai thác nguồn tài nguyên ngày nay được tiến hành khắp nơi trên lục địa, đồng thời đối tượng và diện khai thác đang ngày càng được mở rộng cho tất cả mọi thành phần tự nhiên, do vậy cảnh quan nguyên sinh còn lại rất ít, chỉ còn một số vùng rừng xích đạo ẩm thường xanh ở Đông Nam Á, rừng lá kim ở Siberi, các vùng đồng rêu-rừng, đồng rêu và hoang mạc cực ở phía Bắc, các vùng núi cao hiểm trở Himalaya, Pamir, Tây Tạng, Thiên Sơn... là chưa bị con người khai phá. Phần lớn diện tích lãnh thổ đã được khai thác để trồng trọt, chăn nuôi và tiến hành các hoạt động khác để trồng trọt, chăn nuôi và tiến hành các hoạt động khác với nhiều hình thức và mức độ khác nhau nhưng nhìn chung có mấy đặc điểm đáng chú ý là:

  • Việc sử dụng thiên nhiên gắn liền với điều kiện tự nhiên. Ví dụ, ở vòng đai ôn hòa, vùng sản xuất ngũ cốc tập trung cao nhất nằm trong các đới rừng lá rộng, thảo nguyên rừng và thảo nguyên; vùng trồng cây ăn quả tập trung nhiều ở đới cận nhiệt Địa Trung Hải; còn việc chăn nuôi các động vật có sừng tập trung trong các đới thảo nguyên, bán hoang mạc (bò, ngựa, cừu, dê) hoặc đới đồng rêu và đồng rêu rừng (tuần lộc). Ở vòng đai nóng, các vùng được khai thác sớm và tập trung nhất là các vùng thuộc đới xavan và rừng gió mùa.
  • Việc khai thác kèm theo việc cải tạo và phục hồi nguồn tài nguyên thiên nhiên được tiến hành mạnh mẽ, đáng chú ý là việc cải tạo và sử dụng đất và nguồn nước. Ví dụ, việc đào kênh, đắp đập để phát triển thủy lợi, giao thông, thủy điện, nuôi thủy sản và điều chỉnh dòng chảy được tiến hành ở hầu khắp các nước. Việc tưới nước cho vùng khô hạn được mở rộng ở Trung Á, Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc... đã đạt được những kết quả to lớn. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng việc sử dụng nước hai sông Syr Darya và Amu Darya để tưới cho các hoang mạc ở Trung Á trong thời Liên Xô là bất hợp lý. Hậu quả là, do sử dụng nước quá mức, các sông không còn cung cấp đủ nước cho hồ Aral, hồ bị cạn, thu hẹp diện tích, nước bị hóa mặn và gây ra thảm họa sinh thái cho hồ này và các vùng đồng bằng xung quanh. Ở một số nước khác, ngoài việc xây dựng các công trình cải tạo và sử dụng dòng sông, các công trình tưới nước, còn có hệ thống đê chống lũ lụt, chống nước biển, bảo vệ đất đai. Ở Liên bang Nga đã nghiên cứu, tạo ra được các giống cây trồng cho các vùng khí hậu giá lạnh phương Bắc, xây dựng các công trình trên các vùng băng kết vĩnh cửu.

Tất cả các đặc điểm nói trên cho thấy tính chất phong phú, muôn vẻ và những thành tựu to lớn trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trên lục địa. Ngày nay, việc cải tạo, hồi phục và bảo vệ nguồn tài nguyên là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở mỗi nước, nhất là ở những nước mà nguồn tài nguyên đã được sử dụng và khai phá lâu đời.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Địa lý châu Á** được coi là phức tạp và đa dạng nhất trong số các châu lục trên mặt đất. Châu Á được phân biệt với các châu khác không chỉ bởi có biển
Lục địa châu Âu có diện tích 10.532.000 km² và bờ biển dài khoảng 117.000 km. Khoảng cách từ Nam lên Bắc khoảng 3500 km giữa vĩ độ 30 (Tarifa, Tây Ban Nha) và vĩ độ 71 (Nordkinn,
**Châu Á – Thái Bình Dương** (gọi tắt: **APAC**) là một khu vực trên Trái Đất nằm gần hoặc nằm ở phía Tây Thái Bình Dương, bao gồm nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Bản đồ Hàn Quốc **Đại Hàn Dân Quốc** nằm ở khu vực Đông Á, trên nửa phía nam của bán đảo Triều Tiên, phía đông châu Á. Quốc gia duy nhất có biên giới đất
thế=Bản đồ CHDCND Triều Tiên|nhỏ|588x588px|Bản đồ CHDCND Triều Tiên **Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) nằm ở Đông Á, ở nửa phía bắc của
Dưới đây liệt kê danh sách các đơn vị hành chính cấp tỉnh của các quốc gia châu Á. Các quốc gia châu Á được sắp xếp theo thứ tự alphabet theo tiếng Anh ###
Dân Đây là **danh sách các đô thị và vùng đô thị ở Châu Á** có dân số lớn nhất với số liệu được thu thập từ nhiều nguồn. Châu Á là một trong những
upright|nhỏ|Daedongyeojido, bản đồ Triều Tiên Triều Tiên nằm trên Bán đảo Triều Tiên tại Đông Bắc Á. Về phía tây bắc, sông Amnok (sông Yalu) ngăn cách Triều Tiên với Trung Quốc và về phía
**Hệ động vật châu Á** (_Fauna of Asia_) là tổng thể tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Á và các vùng biển và đảo xung quanh nó, chúng được coi là
Núi Phú Sĩ (_Fujisan_ 富士山) Nhật Bản là một đảo quốc bao gồm một quần đảo địa tầng trải dọc tây Thái Bình Dương ở Đông Bắc Á, với các đảo chính bao gồm Honshu,
nhỏ|400x400px|Các quận của Đặc khu hành chính Hồng Kông: 1. [[Li Đảo; 2. Quỳ Thanh; 3. Quận Bắc; 4. Tây Cống; 5. Sa Điền; 6. Đại Bộ; 7. Thuyền Loan; 8. Đồn Môn; 9. Nguyên
**Olympic Vật lý châu Á** (tiếng Anh: Asian Physics Olympiad (APhO)), là một kì thi vật lý thường niên dành cho học sinh trung học phổ thông các nước châu Á và châu Đại Dương.
__NOTOC__ **Macau** là một Đặc khu hành chính ở bờ biển phía nam của Trung Quốc. Nằm ở phía nam của tỉnh Quảng Đông, trên mũi của bán đảo được hình thành bởi cửa sông
Bản đồ khí hậu đơn giản hoá của châu Phi: Hạ Saharan gồm vùng [[Sahel và Sừng châu Phi khô cằn ở phía bắc (màu vàng), các savanna nhiệt đới (lục sáng) và các rừng
**Tây Á** hoặc **Tây Nam Á** là tiểu vùng cực tây của châu Á. Khái niệm này được sử dụng hạn chế do nó trùng lặp đáng kể với Trung Đông (hay Cận Đông), khác
Bùng phát đại dịch COVID-19 bắt đầu tại châu Á, có nguồn gốc từ Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc, và đã lan rộng ra khắp lục địa. Tính đến ngày 12 tháng 5 năm
**Châu Á** phần lớn nằm ở Bắc bán cầu, là châu lục có diện tích lớn nhất trên thế giới. Thiên nhiên của châu Á rất đa dạng. Diện tích châu lục này bao phủ
**Đại hội Thể thao châu Á**, còn gọi là **ASIAD**, là sự kiện thể thao đa môn cấp châu lục được tổ chức bốn năm một lần dành cho các vận động viên đến từ
**Tiểu lục địa Ấn Độ** là 1 khu vực của châu Á nằm chủ yếu trên Mảng Ấn Độ. ## Định nghĩa Thuật ngữ "tiểu lục địa Ấn Độ" và "Nam Á" thường được dùng
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Bán đảo Ả Rập** ( __, "đảo Ả Rập") là một bán đảo nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía đông bắc châu Phi, trên mảng Ả Rập. Theo góc nhìn địa lý, đây
Đại lục Phi-Á Âu. **Lục địa Á-Âu-Phi** hay **Đại lục Á-Âu-Phi** là khu vực trên bề mặt Trái Đất bao gồm 2 lục địa Á-Âu và lục địa Phi. Đây là một khu vực đất
**Cúp bóng đá châu Á 2019** () là Cúp bóng đá châu Á lần thứ 17, với chu kỳ 4 năm 1 lần, do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức. Giải đấu
**Cúp bóng đá châu Á 2015** là Giải vô địch bóng đá châu Á lần thứ 16 diễn ra từ ngày 9 đến ngày 31 tháng 1 năm 2015 do Liên đoàn bóng đá châu
**Cúp bóng đá châu Á 2023** (**AFC Asian Cup 2023**, ) là giải đấu lần thứ 18 của Cúp bóng đá châu Á, giải vô địch bóng đá nam quốc tế lớn nhất của châu
**Đại hội Thể thao châu Á 2018** ( or _Asian Games 2018_), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 18** (), còn được biết đến với tên gọi **Jakarta-Palembang 2018**
**Vòng loại bóng đá nữ Thế vận hội Mùa hè 2020 khu vực châu Á** () là lần thứ năm của Vòng loại bóng đá nữ Thế vận hội Mùa hè khu vực châu Á,
thumb|right|Bắc Mỹ trên địa cầu Bắc Mỹ là lục địa lớn thứ ba thế giới, có dân số ước tính vào khoảng 380 triệu người và diện tích lên tới 21,346,000 km² (824,714 mi²). Cùng với Nam
**Phân biệt chủng tộc ở châu Á** bắt nguồn từ những sự kiện đã xảy ra ở khắp nơi từ hàng ngàn năm trước cho đến nay. ## Bangladesh Vào năm 2015, Elias Mollah, thành
**Indonesia** là một quốc gia quần đảo nằm ở Đông Nam Á, giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Nó nằm ở một vị trí chiến lược dọc theo các đường biển lớn kết
**Sư tử châu Á** hay **sư tử Ấn Độ**, **sư tử Á-Âu** (danh pháp ba phần: _Panthera leo persica_) là một phân loài sư tử sống ở Ấn Độ. Phạm vi phân bố hiện tại
**Síp** là một hòn đảo nằm ở lưu vực phía Đông của Địa Trung Hải. Đây là hòn đảo lớn thứ ba ở Địa Trung Hải (sau các hòn đảo Siciliia và Sardegna của Ý)
**Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2020** () là lần thứ tư của giải vô địch bóng đá U-23 châu Á, giải đấu bóng đá hai năm một lần dành cho cầu thủ
**Cúp bóng đá U-23 châu Á 2024** () là lần tổ chức thứ sáu của Cúp bóng đá U-23 châu Á, giải bóng đá trẻ do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức
**Trung Quốc** có diện tích 9.571.300 km². Từ Bắc sang Nam có chiều dài là 4000 km, từ Tây sang Đông là 5000 km, có đường biên giới với 14 quốc gia và lãnh thổ bao gồm: Triều
**Đại hội Thể thao châu Á 2010** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 16** () còn được gọi là **Quảng Châu 2010** (), là một sự kiện thể
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
nhỏ|phải|424x424px|Bản đồ [[địa hình Liên Xô]] **Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết** đã từng là quốc gia lớn nhất trên Trái Đất. Diện tích đất liền của nó chiếm khoảng một
thumb||upright=1.15 thumb|upright=1.35|Bản đồ chi tiết của Thái Lan **Thái Lan** nằm ở giữa lục Đông Nam Á lục địa. Nó có tổng diện tích là lớn thứ 50 thế giới. Biên giới trên đất liền
**Châu Á** chiếm 29,4% diện tích đất liền của Trái đất và có dân số khoảng 4,6 tỷ người (tính đến năm 2022), chiếm khoảng 60% dân số thế giới. Tổng dân số của cả
**Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương** (tiếng Anh: _Asia-Pacific Economic Cooperation_, viết tắt là **APEC**) là diễn đàn của 21 nền kinh tế thành viên vành đai Thái Bình
**Khu vực châu Á** của **vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2010** đóng vai trò là vòng loại cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2010, được tổ chức tại Nam
phải|frame|Bản đồ Israel Bản đồ Israel trái|Ảnh chụp từ vệ tinh Israel tháng 1 năm 2003 **Israel** nằm ở rìa phía đông của Biển Địa Trung Hải. Nó có biên giới phía bắc giáp với
**Đại hội Thể thao châu Á 2014** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 17** () còn được gọi là **Incheon 2014** (), là một sự kiện thể thao
**Cúp bóng đá U-17 châu Á 2023** là mùa giải thứ 20 của Cúp bóng đá U-17 châu Á (bao gồm cả các phiên bản trước của Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á
**Người châu Á** () hay **nhóm người tổ tiên thuộc lục địa châu Á** () là một chủng người từ châu Á. Tuy nhiên, mỗi người và mỗi đất nước lại có sự sử dụng
**Địa lý Ấn Độ** đa dạng, bao gồm nhiều miền khí hậu khác biệt từ những dãy núi phủ tuyết cho đến các sa mạc, đồng bằng, rừng mưa nhiệt đới, đồi, và cao nguyên.
**Đại hội Thể thao châu Á 2006** (), tên chính thức là **Asiad** **XV** hay **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 15** (, còn được gọi phổ biến là **Doha 2006** (), là
**Cúp bóng đá châu Á 2004** () là cúp bóng đá châu Á lần thứ 13, được tổ chức lần đầu tiên tại Trung Quốc từ 17 tháng 7 đến 7 tháng 8 năm 2004.
**Campuchia** là một quốc gia tại Đông Nam Á, nằm bên bờ vịnh Thái Lan và nằm giữa các nước Thái Lan, Việt Nam và Lào. Quốc gia này có 2.572 km đường biên giới, trong