✨Lý Quang Địa
Lý Quang Địa (; 29 tháng 9 năm 1642 – 26 tháng 6 năm 1718) là một nhà chính trị, nhà lý học trứ danh thời kỳ đầu nhà Thanh. Mặc dù Lý Quang Địa là một vị quan có tiếng thanh liêm dưới triều Khang Hi, được người đời sau gọi là "thịnh thế lương thần" nhưng phẩm hạnh và nhân cách của ông cũng luôn là đề tài gây nhiều tranh cãi.
Ông đỗ Tiến sĩ vào năm 1670 và đứng thứ năm trên bảng vàng trong kỳ thi thời Khang Hi, làm quan đến chức Trực Lệ Tuần phủ, Lại bộ Thượng thư, Văn Uyên các Đại học sĩ và trở thành người đứng đầu Hàn lâm viện. Đến năm 1681, ông lại thúc đẩy tiến cử Thi Lang cầm quân và lên kế hoạch cho việc thu phục Đài Loan, chấm dứt vương triều Minh Trịnh của Trịnh Thành Công; được các học giả đương thời tôn xưng là An Khê tiên sinh (安溪先生), An Khê Lý tướng quốc (安溪李相国).
Tên gọi
Lý Quang Địa còn có nhiều cái tên được ghi nhận:
- Biểu tự: Tấn Khanh (晉卿).
- Tên hiệu: Hậu Am (厚庵), Hậu Trai (厚齋), Lâm Khanh (林卿).
- Biệt hiệu: Dong Thôn (榕村), Hậu An (厚安). Thành Vân động (成雲洞), Dong Âm thư đường (榕陰書堂). mới 5 tuổi đã đến trường theo thầy đọc sách, "rất ít mở miệng, nhưng đã nói thì đều đã thuộc lòng, không sót một chữ; giỏi về đối, lên tiếng đều làm mọi người kinh ngạc, thầy giáo cũng không dạy được"
Năm Khang Hi thứ 3 (1664), Lý Quang Địa thi đậu Cử nhân trong kỳ thi Hương. Sáu năm sau, ông đỗ Tiến sĩ, đứng vị trí thứ năm trên bảng vàng, được tuyển vào Thứ Thường quán làm vị trí Thứ Cát sĩ. Ông lên đường đến Bắc Kinh nhậm chức, để gia đình lại cho người em Lý Quang Pha săn sóc. Đến tháng 9 năm thứ 12 (1672), ông được thăng chức trở thành Biên tu của Hàn Lâm viện.
Năm thứ 12 (1673), ông được bổ nhiệm vào hội đồng chấm thi của kì thi Hương. Đến tháng 5 cùng năm, ông xin phép nghỉ để về Phúc Kiến thăm người thân. Một năm sau, Lý Quang Địa âm thầm viết mật báo, giấu bên trong lạp hoàn, phái người bí mật mang đến kinh thành, cuối cùng nhờ Nội các Học sĩ Phú Hồng Cơ trình lên Khang Hi Đế. Sau khi nhận được mật báo thì Khang Hi Đế cực kỳ cảm động, khen ngợi Lý Quang Địa trung thành với triều đình. Lúc bấy giờ, Thượng Chi Tín làm phản, xuất quân chiếm lĩnh Cống Châu, Nam An, nhưng không để vào được Phúc Kiến. Khang Thân vương Ái Tân Giác La Kiệt Thư từ Cù Châu đánh chiếm Tiên Hà quan, thu phục Kiến Ninh, Duyên Bình, Cảnh Tinh Trung bị ép xin hàng. Quân đội của Khang Thân vương Kiệt Thư tiến vào chiếm giữ Phúc Châu, Kiệt Thư lệnh cho Đô thống Lạp Cáp Đạt và Lãi Tháp Thảo đem quân đi đánh dẹp Trịnh Kinh, nhân tiện nghe ngóng chỗ ở hiện tại của Lý Quang Địa. Thị độc Học sĩ của Hàn lâm viện. Lý Quang Địa đến Phúc Châu thì cha ông mất, phải quay về nhà chịu tang. lập tức nhậm chức Nội các Học sĩ kiêm Thị lang bộ Lễ. Trong khoảng thời gian này, ông tiến cử Thi Lang đảm nhiệm vị trí tướng lĩnh bình định Đài Loan, Khang Hi Đế tiếp thu việc tiến cử này, thuận lợi thu phục được Đài Loan.
Chìm nổi chốn quan trường
Năm Khang Hi thứ 21 (1682), Lý Quang Địa xin phép nghỉ để đưa mẹ về quê, bốn năm sau mới trở lại kinh thành. Tháng 7, ông được bổ khuyết đưa vào vị trí Ngạch ngoại Học sĩ, ba tháng sau thì trở lại làm Nội các Học sĩ kiêm Kinh diên Giảng quan. Đến tháng 12, ông được thăng làm Chưởng viện Học sĩ, trở thành người đứng đầu trong Hàn lâm viện, hàm Tòng nhị phẩm. Gần cuối năm, ông kiêm nhiệm thêm Khởi cư chú quan, và việc giảng dạy các Thứ cát sĩ mới. Sang năm sau, vì mẹ bị bệnh nên ông xin về quê chăm sóc mẹ, được Khang Hi Đế đồng ý. Không những vậy, Khang Hi còn đặc biệt ra lệnh cho ông lập tức quay về kinh sau khi mẹ khỏi bệnh để đảm nhiệm chức vụ, trong suốt khoảng thời gian đó không cần điều người thay vị trí của ông.
Năm thứ 27 (1688), tháng 3, Lý Quang Địa trở lại kinh thành. Lúc ấy đang là tang kỳ của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, quan viên bộ Lễ liền lấy cớ đó vạch tội ông cố ý kéo dài thời gian trên đường đi, thân là quan Tam phẩm nhưng lại không thể kịp thời trở về kinh thành dập đầu trước tử cung của Thái hoàng thái hậu, cho rằng nên giao cho bộ Lại luận tội và xử lý. Bộ Lại đề xuất rằng nên giáng xuống năm cấp rồi thuyên chuyển, nhưng cuối cùng Khang Hi lại hạ chỉ miễn tội. cũng không thể bằng. Tuy nhiên lại có người tố cáo rằng Đức Cách Lặc và Lý Quang Địa đã từng quen biết trước đây, vậy nên ông mới đề cử Đức Cách Lặc. Nhân việc ông đã quay lại kinh thành, Khang Hi lệnh cho ông cùng các quan viên xem xét bài thi của Đức Cách Lặc. Đến khi xem xét thì phát hiện văn chương của người này "từ ngữ thô bỉ, không hề nho nhã". Khi bị chất vấn, Lý Quang Địa cũng thú nhận tội "vọng tấu", bị giao cho các bộ luận tội xử lý. Lúc này, Khang Hi lại hạ chỉ, nói rằng Lý Quang Địa vốn nên bị trị tội, nhưng niệm tình khi ông nhậm chức Học sĩ chưa từng vì niệm tình mà qua loa lấy lệ, trong chiến tranh với Đài Loan, dù ai cũng nói không thủ được thì Lý Quang Địa vẫn đơn độc nói "có thể thủ", và ông cũng đã làm được, đây cũng là sở trường của ông. Ngoài lần này ra, Lý Quang Địa chưa từng "vọng tấu", đều là nói được làm được, vậy nên Khang Hi lại ra lệnh miễn tội, vẫn tiếp tục làm Học sĩ như cũ. Tháng 9 cùng năm, ông được chọn làm Chính khảo quan cho kỳ thi Hội dành cho võ.
Năm thứ 28 (1689), có một lần Khang Hi Đế đến đài quan sát tinh tượng, triệu các đại thần trong các bộ, viện, hỏi trong các Hán thần có ai hiểu biết về thiên văn hay không, các quan đều đáp không biết. Khang Hi liền cho gọi Lý Quang Địa đang là Chưởng viện Học sĩ, hỏi ông hiểu tinh tú được bao nhiêu. Lý Quang Địa liền tấu rằng, ngay cả Nhị thập bát tú thần còn chưa thể biết hết toàn bộ. Khang Hi liền nói ông tự biết mình, lại hỏi đến các vấn đề khác về nông lịch, sao Chủy, sao Sâm, ông tiếp tục đáp không biết. Khang Hi Đế vốn là một nhà bác học, tinh thông nhiều bộ môn, trong đó có cả thiên văn học, liên tục đặt ra các vấn đề cho Lý Quang Địa nhưng ông đều không thể trả lời. Điều này khiến cho Khang Hi Đế vô cùng thất vọng, cho rằng ông tài học chưa đến, không thể làm tấm gương sáng của Hàn Lâm, liền giáng ông xuống chức Thông chính sứ của Thông chính sứ ty. Nhưng đến tháng 12, ông lại được thăng chức trở thành Hữu Thị lang của bộ Binh. Cuối năm này có nạn mất mùa, Khang Hi lệnh cho các bộ phận liên quan chẩn tai, miễn trừ thuế ruộng, huy động lương thực đưa đến tay các nạn dân, tổ chức phát cháo tại nhiều địa phương; Lý Quang Địa cùng một số quan viên khác được lệnh chia làm bốn đường để tuần tra xem xét. Trong khoảng thời gian này, ông được điều sang làm Tả Thị lang.
Năm thứ 30 (1691), tháng hai, triều đình tổ chức kì thi Hội, quan Chính khảo là Đại học sĩ Trương Ngọc Thư và Công bộ Thượng thư Trần Đình Kính, quan Phó khảo là Lý Quang Địa và Đốc bộ Thị lang của Binh bộ Vương Sĩ Chính. Đến tháng 9, phía nam sắp vào mùa lũ, Khang Hi Đế lệnh cho Hộ bộ Thị lang Bác Tế, Công bộ Thị lang Từ Đình Tỳ và Lý Quang Địa cùng với nguyên nhậm Hà Đạo Tổng đốc Cận Phụ đi tra xét Hoàng Hà và các công trình xung quanh, nếu có công trình nguy hiểm nào không vững chắc, có nguy cơ hư hỏng thì lập tức tu sửa. Tháng giêng ba năm sau (1694), Lý Quang Địa được thăng làm Đề đốc Học chính của Thuận Thiên. Nhưng vài tháng sau thì mẹ ông qua đời. Dựa theo lễ chế, ông phải cần từ chức để về quê chịu tang, làm tròn đạo hiếu, gọi là "đinh ưu thủ chế". Theo nghiên cứu của giáo sư Bác Đạo - giáo sư viện Triết học Mac của Đại học Kinh tế Tài chính Thượng Hải, khi một quan viên xin về quê để tang cha mẹ (27 tháng), các vị trí của quan viên đó đều sẽ có người thay thế vào, sau khi quan viên trở lại kinh thành cũng phải đợi bổ khuyết, đó là một cách để rút ngắn nhiệm kỳ và tăng nhanh sự luân chuyển quan viên giữa các vị trí. Tuy nhiên, Khang Hi Đế lại một lần nữa hạ chỉ, nói rằng vị trí Đề đốc Học chính Thuận Thiên này vô cùng quan trọng, đặc cách cho Lý Quang Địa tại nhiệm chịu tang. Mặc dù đây là một đặc cách thể hiện sự trọng dụng của Khang Hi Đế, nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến "án đoạt tình" gây tranh cãi về Lý Quang Địa.
Năm thứ 36 (1697), sau khi mãn tang mẹ, ông được thăng làm Công bộ Hữu Thị lang. Không lâu sau lại thuyên chuyển làm Tả Thị lang nhưng vẫn kiêm nhiệm Đề đốc Học chính như cũ. Năm sau, trong một lần theo Khang Hi đến Thịnh Kinh tế tổ, ông đã được chọn làm thầy dạy cho Tam A ca Dận Chỉ. Tháng 12 cùng năm, nhờ "làm quan ưu tú" và "thanh liêm" mà ông được thăng làm Trực Lệ Tuần phủ. Trong thời gian ông tại nhiệm, ông đã xử lý rất tốt việc lũ lụt trong vùng, xây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn thủy vận, nhiều lần ông về kinh báo cáo công tác hay Khang Hi Đế đích thân đi khảo sát việc đê điều sông ngòi đều khen ông có năng lực làm việc tốt, nhiều lần đánh giá quan viên đều cho ông loại ưu.
Năm thứ 42 (1703), Khang Hi Đế hạ dụ chỉ rằng, từ lúc Lý Quang Địa nhậm chức Tuần phủ, mọi năm đều mưa thuận gió hòa, ngũ cốc được mùa, lòng dân đều tâm phục, nay vị trí Lại bộ Thượng thư đang trống, liền thăng Lý Quang Địa vào vị trí này, trở về kinh thành nhậm chức, đứng vào hàng Cửu Khanh, nhưng vẫn tiếp tục quản lý công việc của Trực Lệ Tuần phủ. Khoảng thời gian này là giai đoạn gay gắt nhất của "Cửu tử đoạt đích", Khang Hi Đế hạ lệnh bắt giam Sách Ngạch Đồ và xử tội hàng loạt những người thuộc phe Thái tử Dận Nhưng; Lý Quang Địa và Trương Đình Ngọc phụng lệnh điều tra vụ án này. Tháng 11 hai năm sau, ông tiếp tục được Khang Hi khen ngợi "năng lực và phẩm chất đều tốt", thăng làm Văn Uyên các Đại học sĩ.
Cuộc sống cuối đời
Tháng 3 năm thứ 48 (1709), lấy Đại học sĩ Ôn Đạt và Lý Quang Địa làm Chính sứ, Tả Đô ngự sử Mục Hòa Luân làm Phó sứ cầm cờ tiết, trao cho Dận Nhưng sách bảo phục lập làm Hoàng thái tử. Từ sau năm 1711, ông đã nhiều lần dâng tấu xin về hưu. Nhưng Khang Hi Đế vì việc phế Thái tử lần thứ hai và việc chọn người kế vị mà trong lòng buồn bực, thân thể ngày càng nhiều bệnh, đối với các lão thần như Lý Quang Địa luôn có phần luyến tiếc. Khang Hi từng nói với Lý Quang Địa: "Nhìn thấy tấu chương của khanh, trong lòng trẫm thê lương. Nhớ đến một lớp cựu thần năm đó, nay đều không chút dấu vết mà rời đi. Như khanh vậy, trong triều chỉ còn lại một người, nay trẫm cũng già rồi, cũng không đành lòng nói thêm cái gì".
Tháng 6 năm thứ 54 (1715), Lý Quang Địa lại một lần nữa trình tấu chương xin về hưu, Khang Hi chỉ đồng ý cho ông nghỉ ngơi hai năm, sau khi xử lý xong chuyện trong nhà thì lập tức quay về kinh thành. Lúc ông chuẩn bị khởi hành, Khang Hi đã ban cho ông một biển ngạch "Mô minh bật hài". Đúng hai năm sau, Lý Quang Địa quay lại kinh thành, phụng lệnh giám sát nhóm người Đại học sĩ Vương Diễm biên soạn "Xuân Thu truyền thuyết".
Tháng giêng năm thứ 57 (1718), các đại thần tấu định thụy hiệu cho Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu, lại viết sót ba chữ "Chương Hoàng hậu", các bộ nghị tội xét nên hàng Lý Quang Địa ba cấp, nhưng Khang Hi ra lệnh miễn đi. Ngày 28 tháng 5 năm đó, bệnh cũ tái phát bất ngờ, Lý Quang Địa qua đời khi vẫn còn đang tại nhiệm, thọ 77 tuổi. Khang Hi Đế phái Hằng Thân vương Dận Kì đến phúng viếng, ban thưởng một ngàn lượng bạc và cho gọi Công bộ Thượng thư Từ Nguyên Mộng từ Nhiệt Hà trở về chăm lo cho tang sự của Lý Quang Địa. Không lâu sau, ông được truy thụy hai chữ "Văn Trinh" (文贞). Đến thời Ung Chính, ông được truy tặng hàm Thái tử Thái phó, Quang lộc Đại phu, đưa vào thờ tự trong Hiền lương từ.
An táng
Mộ phần của Lý Quang Địa được đặt ở rừng Bách Diệp, thôn Tân Phản, trấn Bồng Lai của huyện An Khê. Mộ nguyên được làm bằng đá, hình dạng tổng thể tương tự chữ "风", nhưng toàn bộ các công trình như mộ bia, tượng người và thú bằng đá, cột trụ đá khắc hoa văn, tấm bia to ngự chế đều đã bị phá hủy vào năm 1958 để lấy đá xây kênh mương. Về sau hậu duệ của Lý Quang Địa sửa sang lại nơi này, khôi phục mộ bia. Đến năm 1988, huyện An Khê chính thức công nhận nơi này thuộc sự bảo vệ của đơn vị bảo vệ văn vật cấp huyện.
Học thuật
Triết lý
Triết lý của Lý Quang Địa bắt nguồn từ trường phái Trình – Chu, mặc dù là một tín đồ của Chu Hi, ông không hoàn toàn coi thường lời dạy của Lưu Cửu Uyên và Vương Dương Minh - những người có tư tưởng trái ngược, thậm chí là bác bỏ tư tưởng của Chu Hi. Ông cũng nêu rõ những điểm tương đồng giữa những lời dạy của Khổng Tử với những lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm và Lão Tử. Lý Quang Địa cảm thấy rằng bản chất con người (mà ông tin rằng vốn dĩ là tốt) là chủ đề cuối cùng trong nghiên cứu của ông, và bản chất đó là kim chỉ nam để làm nền tảng cho đạo đức con người. Ông còn quan tâm đến khoa học và các phát kiến khoa học phương Tây.
Tác phẩm
Lý Quang Địa có một số tác phẩm nổi danh:
-
Chu Dịch thông luận (周易通论), 4 quyển
-
Chu Dịch quan tượng (周易观象), 12 quyển
-
Thi sở (诗所), 8 quyển
-
Đại học cổ bản thuyết (大学古本说), 1 quyển
-
Trung dung chương đoạn (中庸章段), 1 quyển
-
Trung dung dư luận (中庸余论), 1 quyển Độc luận ngữ trát ký (读论语札记), 2 quyển Độc Mạnh Tử tạp ký (读孟子杂记), 2 quyển Cổ lạc kinh truyện (古乐经传), 5 quyển Âm Phù Kinh chú (阴符经注), 1 quyển *Chu Tử lễ toản (朱子礼纂), 5 quyển Một cuốn sách mang tên "Dong Thôn toàn tập" tổng hợp về các tác phẩm của ông đã được biên soạn và xuất bản vào khoảng 100 năm sau khi ông qua đời.
-
Tính lý tinh nghĩa (性理精義)
-
Chu Tử toàn thư (朱子全書), 66 quyển
-
Chu Dịch chiết trung (周易折中), 22 quyển
Có thể nói, ông là một đại diện tiêu biểu cho Tống Nho học thời Thanh sơ, cũng là lý do ông được Khang Hi Đế chọn trở thành một trong các thầy dạy vỡ lòng cho Thái tử Dận Nhưng.
Tranh cãi
Bán rẻ bạn bè
Vì án "bán rẻ bạn bè" mà Lý Quang Địa có tiếng xấu trong giới sĩ lâm. Lúc Loạn Tam Phiên xảy ra, Cảnh Tinh Trung chiếm Phúc Kiến, Trịnh Kinh ở Đài Loan khởi binh tấn công Tuyền Châu, cả nhà Lý Quang Địa chạy trốn đến núi sâu, Trịnh Kinh và Cảnh Tinh Trung đều dụ hàng nhưng Lý Quang Địa quả quyết từ chối, tránh xa vào núi sâu. Cũng là một Tiến sĩ cùng khoa thi năm 1670 với Lý Quang Địa, Trần Mộng Lôi lọt vào sự cướp bóc của Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến. Chú của Lý Quang Địa là Lý Nhật Dục âm thầm đến tìm Trần Mộng Lôi để tìm hiểu. Sau khi Lý Quang Địa hiểu được tinh thần của Trần Mộng Lôi liền đến bàn nhau kế phá địch. Trần Mộng Lôi chịu trách nhiệm thám thính quân tình của Cảnh quân, Lý Quang Địa thì chịu trách nhiệm báo cáo tình hình Phúc Kiến cho triều đình nhà Thanh thông qua một vị đại thần quê Phúc Kiến là Phú Hồng Cơ. Về sau, quả nhiên giúp đỡ được quân triều đình tiêu diệt Cảnh quân, Lý Quang Địa được Khang Hi Đế khen ngợi, nhưng ông cũng đã sớm đem tấu chương cho danh tiếng "Trần Mộng Lôi" giấu đi, độc chiếm công lao. Sau khi phản loạn được dẹp yên, Trần Mộng Lôi vốn hãm thân trong quân đội địch cũng bị quy kết vào tội theo phản quân, bị bắt bỏ tù, biếm đến giữ Phụng Thiên. Còn Lý Quang Địa lại lên như diều gặp gió, chẳng mấy chốc đã lên đến Văn Uyên các Đại học sĩ. Lý Quang Địa không những không cứu Trần Mộng Lôi mà còn bỏ đã xuống giếng, vì vậy mới bị sĩ lâm trong thiên hạ xưng "Bán rẻ bạn bè", đây cũng là "Trần - Lý công án" gây nhiều tranh cãi về Lý Quang Địa.
Trần Mộng Lôi bị bắt giam, bi phẫn đến cùng cực, bỏ suốt một tháng 7 để viết "Cáo Đô thành hoàng văn", vạch trần hành vi bội tình bạc nghĩa của Lý Quang Địa. Trần Mộng Lôi cực kỳ căm hận Lý Quang Địa, mắng ông là "Khi quân phụ hữu" (Dối gạc vua, bội bạc bạn bè), lại viết thêm "Cùng Lý An Khê tuyệt giao thư" (hoặc còn có tên là "Cùng Lý Quang Địa tuyệt giao thư"). Đến năm Khang Hi thứ 19 (1680), Hình bộ Thượng thư Từ Kiền Học quản lý việc lao ngục đã "thay mặt" Lý Quang Địa viết một bản thảo tấu chương nêu rõ biểu hiện chân thật của Trần Mộng Lôi trong lúc Cảnh Tinh Trung làm loạn ở Phúc Kiến, ép Lý Quang Địa phải ra mặt dâng lên. Lý Quang Địa nghĩa lý đều khó từ chối, đành phải ký tên. Nhưng đến cuối cùng ông cũng không chịu nói rõ công lao của Trần Mộng Lôi, chỉ vẻn vẹn xin khoan hồng mà thôi. Cuối cùng, Trầm Mộng Lôi cũng bị lưu vong đến Phụng Thiên., trái với cả lẽ cả tình; liền dâng tấu lên Khang Hi rằng: "Hoàng thượng lệnh Lý Quang Địa tại nhiệm để tang, có thể là đang dùng cái này để thử Quang Địa. Nhưng lòng người khó đoán, Quang Địa cả ngày nói dạy nhân nghĩa, nói trung hiếu, một lần thử này có thể thấy được tâm thuật cũng không ngay thẳng như vậy". Cuối cùng, Khang Hi Đế hạ lệnh tạm cách chức Lý Quang Địa, không cho phép về quê. Cũng vì ba án này mà Lý Quang Địa bị xem là phẩm đức không tốt, khiến cho thái độ của các học giả đối với ông trong một thời gian dài là "không nghiên cứu, không bình phẩm, khinh thường nhắc đến".
Gia quyến
- Ông nội: Lý Tiên Xuân
- Cha: Lý Triệu Khánh
- Mẹ: Ngô thị
- Con cái: Lý Chung Luân Lý Chung Tu Lý Chung Tá Lý Chung Thiển Lý Chung Kiều Lý Chung Vượng
- Cháu nội: Lý Thanh Tảo
- Cháu cố: Lý Duy Hàn