✨Cao Ly Thành Tông

Cao Ly Thành Tông

Cao Ly Thành Tông (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương triều Cao Ly.

Ông sinh ngày 15 tháng 1 năm 961, là con trai thứ hai của Vương Húc, và vợ đồng thời là em gái cùng cha khác mẹ với ông ta là Tuyên Nghĩa Vương hậu., và là vương tôn của Cao Ly Thái Tổ. Tên thật của ông là Vương Trị (왕치; 王治), tự là Ôn Cổ (온고; 溫古).

Hai em gái ruột của ông là Hiến Ai Vương hậu và Hiến Trinh Vương hậu. Do cha mẹ mất sớm nên ba anh em bà sống cùng với bà nội là Thần Tĩnh Vương thái hậu.

Cao Ly Cảnh Tông (anh họ và cũng là em rể của ông) mất sớm vào ngày 13 tháng 8 năm 981, người con trai duy nhất của ông ta, Vương Tụng khi đó chỉ mới 1 tuổi nên Vương Trị đã lên kế vị, tức là Cao Ly Thành Tông.

Trị vì

Cải cách và ngoại giao thời kỳ đầu

Vừa lên ngôi vua, Thành Tông đã phong cho Hiến Ai Vương hậu (em gái của Thành Tông, vợ của Cao Ly Cảnh Tông) thành Sùng Đức công chúa. Sau đó Sùng Đức công chúa bị Thành Tông buộc phải rời khỏi hoàng cung Khai Thành và sống bên ngoài Khai Thành cùng con trai bà ta là Vương Tụng. Thành Tông truy tôn cho cha mình là Vương Húc trở thành Cao Ly Đới Tông. Là một góa phụ, Hiến Trinh Vương hậu (em gái của Thành Tông, vợ của Cao Ly Cảnh Tông) cũng phải chuyển đến nhà mẹ đẻ bên ngoài cung điện ở Khai Thành; ngôi nhà gần với người chú cùng cha khác mẹ của bà ta, Vương Uất, nằm ở chùa Vương Luân tự (왕륜사, 王輪寺), núi Songak. Vì luật pháp Cao Ly cấm thái hậu tiếp cận những người đàn ông khác nên bà ta thường đến thăm chú của mình và khi họ dành thời gian bên nhau, họ trở nên thân thiết. trở thành Vương hậu của Thành Tông (dù trước đó bà ta từng lấy Hoằng Đức Viện quân Vương Khuê và hạ sinh Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị). Bà ta trở thành Vương hậu Cao Ly đầu tiên tái hôn. Tuyên Chính Vương hậu Lưu thị được Thành Tông trực tiếp nuôi dạy và được coi như là con đẻ, do đó nhiều người tin rằng Tuyên Chính Vương hậu là con gái ruột của Thành Tông.

Sau khi lên ngôi, Thành Tông ban đầu bằng lòng không can thiệp vào các địa chủ cấp tỉnh và xoa dịu tầng lớp quý tộc gốc Tân La. Thành Tông đã kết hôn với một phụ nữ thuộc hoàng tộc Tân La là Văn Hòa Vương hậu Kim thị (문화왕후 김씨), con gái của Kim Nguyên Sùng.

Năm 982, Thành Tông chấp nhận những đề xuất trong một bản tưởng niệm do học giả Nho giáo là Thôi Tặng Lão (최승로, 崔承老, Ch'oe Sŭng-no) viết (trong đó ông ta thảo luận về các chính sách nhà nước của 5 vị vua trước của Cao Ly và đề xuất 28 chính sách cải cách triều đình) và bắt đầu thành lập một triều đình theo phong cách Nho giáo. Những chính sách này đã trở thành cơ sở quan trọng cho các vấn đề quốc gia như hệ thống chính trị và chính quyền địa phương của Cao Ly. Thôi Tặng Lão gợi ý rằng Thành Tông có thể hoàn thành những cải cách của Cao Ly Quang Tông, vị vua thứ tư của Cao Ly, người mà ông đã kế thừa từ Cao Ly Thái Tổ. Cao Ly Thái Tổ đã từng nhấn mạnh Kinh điển lịch sử của Nho giáo, trong đó nói rằng vị Hoàng đế lý tưởng nên hiểu nỗi đau khổ của nông dân và trực tiếp trải qua công việc vất vả của họ. Thành Tông tuân theo nguyên tắc này và thiết lập chính sách theo đó các quan chức quận được chính quyền trung ương bổ nhiệm và tất cả vũ khí thuộc sở hữu tư nhân đều được thu thập để đúc lại thành nông cụ.

Thành Tông đã tiến hành cải cách tại Cao Ly và tạo lập vương quốc thành một chế độ quân chủ tập trung trên nền tảng Nho giáo vững chắc. Ông đã nhấn mạnh sự trong sạch và khiết tịnh đối với hai em gái của mình là Sùng Đức công chúa và Hiến Trinh Vương hậu. Cuối năm 982, Thôi Tặng Lão được thăng lên chức Môn hạ thị lang bình chương sự (문하시랑평장사; 門下侍郎平章事; munhasirang p'yŏngjangsa). Thôi Tặng Lão đã truyền bá Nho giáo rộng rãi ở Cao Ly và thiết lập cơ cấu chính trị cơ bản của Cao Ly vào thời đại Thành Tông.

Năm 983, ông thành lập hệ thống gồm 12 mục, các đơn vị hành chính chiếm ưu thế trong phần lớn giai đoạn về sau của Cao Ly. Ông cử những người đàn ông được học hành đến mỗi mục để giám sát giáo dục địa phương. Điều này được dự định là một cách để tích hợp tầng lớp quý tộc của đất nước vào bộ máy quan lại mới. Những người con tài năng của các quý tộc trong nước được giáo dục để có thể vượt qua các kỳ thi tuyển quan lại và được bổ nhiệm vào các chức vụ chính thức trong triều đình Cao Ly ở kinh đô Khai Thành. Trong năm 983, Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) đã đạt điểm cao nhất trong kỳ thi tuyển quan lại và đủ tiêu chuẩn làm quan cho triều đình Cao Ly ở tuổi 36. Từ Hi (Seo Hui) được Thành Tông giao chức Binh quan Ngự sự (兵官御事 Byeonggwan eosa), phụ trách việc quân sự. Thành Tông còn lập ra 3 kinh đô nhỏ cho Cao Ly tại 3 nơi mà ngày nay gọi là Seoul, Gyeongju và Bình Nhưỡng.

Cùng năm 983, Thành Tông sai sứ sang nhà Tống xưng thần với vua Tống Thái Tông, định kỳ hằng năm triều cống cho nhà Tống. Thành Tông bỏ niên hiệu riêng, tiến hành dùng niên hiệu của nhà Tống. Ngoài ra Thành Tông còn buộc bá quan Cao Ly gọi mình là "điện hạ", thay vì gọi là "bệ hạ" như trước, vì danh xưng "bệ hạ" chỉ xứng đáng với hoàng đế nhà Tống. Từ đó Cao Ly đã trở thành nước chư hầu của nhà Tống (sau này nhà Triều Tiên cũng dùng cách gọi các vua Triều Tiên là "điện hạ" thay vì "bệ hạ" để tỏ lòng thần phục các triều đại của Trung Quốc).

Năm 985, vua Tống Thái Tông của nhà Tống sai sứ giả sang Cao Ly yêu cầu Thành Tông phát binh cùng Tống đánh nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Thành Tông lấy cớ quân đội Cao Ly lâu ngày không được tập luyện, còn yếu kém để từ chối sứ giả nhà Tống.

Biết được sức mạnh quân sự của nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) yếu hơn so với nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) và thường thua trận trước họ, cùng năm 985, vua Ô Huyền Minh của Định An Quốc cử sứ giả đến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) và cầu cứu. Nhưng Thành Tông đã từ chối lời đề nghị đó và đã dùng vũ lực đuổi sứ giả Định An Quốc ra ngoài hoàng cung.

Tháng 1 năm 986, nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) đã ra quân tiêu diệt quốc gia của người Bột Hải là Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh) và sáp nhập Định An Quốc vào lãnh thổ nhà Liêu. Người Bột Hải tiếp tục di cư đến Cao Ly (đời vua Thành Tông). Điều này khiến cho Thành Tông lo lắng. Các hành động quân sự này của nhà Liêu diễn ra rất gần với lãnh thổ Cao Ly, cộng thêm nhà Liêu từng dự tính xâm lược vào Cao Ly năm 947 (song hủy bỏ), cùng quan hệ ngoại giao và văn hóa bền chặt giữa Cao Ly và nhà Tống, quan hệ nhà Liêu-Cao Ly do vậy cực kỳ kém. Cả nhà Liêu và Cao Ly đều nhìn nhận đối phương như một mối đe dọa quân sự; nhà Liêu sợ rằng Cao Ly sẽ cố gắng kích động các cuộc nổi loạn trong số cư dân Bột Hải sống tại lãnh thổ Liêu, trong khi Cao Ly lo sợ bị nhà Liêu xâm lược.

Do đã lấy hai người vợ là Văn Đức Vương hậu Lưu thị (문덕왕후 유씨) và Văn Hòa Vương hậu Kim thị (문화왕후 김씨) nhưng vẫn chưa có con trai để kế vị ngôi vua sau này, chỉ toàn sinh con gái, Thành Tông quyết định nạp thêm phu nhân. Người được chọn là Diên Xương Cung phu nhân Thôi thị (연창궁부인 최씨), con gái của Học giả Nho giáo Thôi Hành Ngôn, và gia đình Thôi Hành Ngôn này chưa từng có quan hệ hôn nhân với một thành viên hoàng tộc Cao Ly nào. Do đó cuộc hôn nhân này là điều bất thường vào thời điểm đó. Tuy nhiên Diên Xương Cung phu nhân sau khi lấy Thành Tông cũng chỉ sinh hạ con gái là Nguyên Hòa Vương hậu Thôi thị (원화왕후 최씨).

Năm 988, Thành Tông thăng chức Thôi Tặng Lão lên làm Môn hạ thị trung (문하시중; 門下侍中; munha sijung), và được phong là Chungha hầu.

Ngày 17 tháng 6 năm 989, Môn hạ thị trung Thôi Tặng Lão qua đời và được Thành Tông truy tặng là Munch'ŏng.

Năm 990, Thành Tông phong cho con của Sùng Đức công chúa (em gái của Thành Tông) là Vương Tụng (khi đó mới 10 tuổi) làm người kế vị của mình do ông không sinh được con trai. Vương Tụng được Thành Tông sai người đưa vào hoàng cung Khai Thành và nuôi dạy như con ruột của mình. Vợ thứ hai của Thành Tông là Văn Hòa Vương hậu Kim thị đã trực tiếp nuôi dạy Vương Tụng. Vương Tụng lớn lên cùng với Tuyên Chính Vương hậu như em trai với chị gái, Vương Tụng cũng được cho là thích đi theo Tuyên Chính Vương hậu vì bà ta đã chăm sóc ông ta từ khi còn nhỏ.

Mặc dù Định An Quốc chính thức thất thủ trước nhà Liêu vào năm 986, nhưng các ghi chép cho thấy cuộc kháng chiến của người Bột Hải chống lại nhà Liêu vẫn tiếp tục ở vùng phía tây, bất chấp sự sụp đổ của nhà nước Định An Quốc và nhà Liêu phải thiết lập ba tiền đồn quân sự ở hạ lưu sông Áp Lục khi họ chính thức sáp nhập tàn dư Định An Quốc vào năm 991.

Cùng năm 991 Thái hậu Tiêu Xước của nhà Liêu phái quân Khiết Đan tấn công người Nữ Chân ở hạ lưu sông Áp Lục. Khi đó nhà Liêu đã bắt đầu các cuộc tấn công chống lại Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông).

Giải quyết những vụ bê bối của hai người em gái

Lúc này, Sùng Đức công chúa (mẹ của Vương Tụng, người cháu đã được Thành Tông chọn là người sẽ kế vị ông sau khi ông qua đời) gặp Kim Trí Dương (김치양, 金致陽, Kim Chi-yang), người đến từ gia tộc họ Kim ở Dongju và là họ hàng ngoại của Sùng Đức công chúa. Kim Trí Dương đã đi tu từ rất sớm nhưng sau đó vào cung bắt đầu mối quan hệ với Sùng Đức công chúa. Theo Cao Ly sử, dương vật của Kim Trí Dương đủ lớn để có thể dùng làm trục cho bánh xe ngựa. Điều này đã thu hút Sùng Đức công chúa. Thường xuyên gặp Kim Trí Dương, bà ta đến để thông cảm với ông ta. Hai người tư thông với nhau. Nhưng khi Thành Tông biết chuyện này của bà thì ra lệnh cấm bà ta và Kim Trí Dương gặp nhau. Tuy nhiên, bà ta vẫn bí mật gặp Kim Trí Dương, việc này khi lộ ra đã gây náo loạn trong cung, nhưng Thành Tông đã nhanh chóng kết thúc vụ bê bối này và trấn an người dân bằng cách tống Kim Trí Dương đi lưu đày.

Năm 992, Thành Tông cử Từ Hi (Seo Hui) tham gia đoàn ngoại giao của Cao Ly sang Tống (đời vua Tống Thái Tông) để tái lập quan hệ ngoại giao giữa Cao Ly và nhà Tống. Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) gia nhập triều đình Cao Ly ở kinh đô Khai Thành khi được thăng lên chức Lễ Bộ thị lang.

Cũng trong năm 992, Quốc Tử giám (국자감, 國子監, Gukjagam) đã được xây dựng trong kinh thành Khai Thành của Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông). Quốc Tử giám này là một phần trong chương trình cải cách Nho giáo chung của Thành Tông, cùng với các kỳ thi công chức khoa cử (과거, 科擧, gwageo) và các trường học cấp tỉnh hương giáo (향교, 鄕校, hyanggyo). Nó hình thành nên nền tảng của hệ thống giáo dục Nho giáo mà ông đã hình dung. Thánh chỉ ban đầu của Thành Tông trong năm 992 là cung cấp đất đai và nô lệ để hỗ trợ trường học Quốc Tử giám. Tuy nhiên, chi phí học phí vẫn ở mức cao đối với hầu hết những học viên không thuộc các gia đình giàu có.

Vương Uất (왕욱), chú ruột của Thành Tông, thường xuyên qua lại cung phủ của Hiến Trinh Vương hậu (em gái của Thành Tông). Từ đó hai người nảy sinh tình cảm mà tư thông với nhau. Kết quả là Hiến Trinh Vương hậu đã mang thai.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cao Ly Thành Tông** (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Cao Ly Quang Tông** (Hangul: 고려 광종, chữ Hán: 高麗 光宗; 925 – 4 tháng 7 năm 975, trị vì 949 – 975) là vị quốc vương thứ tư của Cao Ly. Ông là con
**Cao Ly An Tông** (chữ Hán: 高麗 安宗, Hangul: 고려 안종; ? – 24 tháng 7 năm 996), tên húy là **Vương Úc** (王郁, 왕욱) là vương tử thứ 13 của vua sáng lập nên
**Cao Ly Cảnh Tông** (Hangul: 고려 경종, chữ Hán: 高麗 景宗; 9 tháng 11 năm 955 – 13 tháng 8 năm 981, trị vì 975 – 981) là quốc vương thứ năm của vương triều
**Cao Ly Đới Tông** (Hangul: 고려 대종, Hanja: 高麗 戴宗; ? - tháng 11 năm 969), có tên húy là **Vương Húc** (王旭, 왕욱, Wang Wook) là vương tử thứ 8 của Cao Ly Thái
**Cao Ly Hiển Tông** (chữ Hán: 高麗 顯宗, Hangul: 고려 현종, _Golyeo Hyeonjong_; 1 tháng 8 năm 992 – 17 tháng 6 năm 1031, trị vì 1009 – 1031) là quốc vương thứ 8 của
**Cao Ly Tĩnh Tông** (Hangeul: 고려 정종, chữ Hán: 高麗 靖宗; 31 tháng 8 năm 1018 – 24 tháng 6 năm 1046, trị vì 1034 – 1046) là vua thứ 10 của vương triều Cao
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
**Cao Ly Đức Tông** (Hangeul: 고려 덕종, chữ Hán: 高麗 德宗, 9 tháng 6 năm 1016 – 31 tháng 10 năm 1034, trị vì 1031 – 1034) là quốc vương thứ 9 của vương triều
**Cao Ly Duệ Tông** (Hangul: 고려 예종, chữ Hán: 高麗 睿宗; 11 tháng 2 năm 1079 – 15 tháng 5 năm 1122, trị vì 1105 – 1122) là quốc vương thứ 16 của Cao Ly.
**Cao Ly Huệ Tông** (Hangul: 고려 혜종, Hanja: 高麗 恵宗; 912 – 945), trị vì từ năm 943 – 945. Ông là vị quốc vương thứ hai của triều đại Cao Ly. Ông là người
**Cao Ly Nhân Tông** (Hangul: 고려 인종, chữ Hán: 高麗 睿宗; 29 tháng 10 năm 1109 – 10 tháng 4 năm 1146, trị vì 1122 – 1146) là quốc vương thứ 17 của Cao Ly.
**Cao Ly Tuyên Tông** (Hangul: 고려 선종, chữ Hán: 高麗 宣宗; 9 tháng 10 năm 1049 – 17 tháng 6 năm 1094, trị vì 1083 – 1094) là quốc vương thứ 13 của Cao Ly.
**Cao Ly Khang Tông** (Hangul: 고려 강종, chữ Hán: 高麗 康宗; 10 tháng 5 năm 1152 – 26 tháng 8 năm 1213, trị vì 1211 – 1213) là quốc vương thứ 22 của vương triều
**Cao Ly Nguyên Tông** (Hangul: 고려 원종, chữ Hán: 高麗 元宗; 5 tháng 4 năm 1219 – 23 tháng 7 năm 1274, trị vì 1260 – 1274) là quốc vương thứ 24 của vương triều
**Cao Ly Hi Tông** (Hangul: 고려 희종; chữ Hán: 高麗 熙宗; 21 tháng 6 năm 1181 – 31 tháng 8 năm 1237, trị vì 1204 – 1211) là quốc vương thứ 21 của vương triều
**Cao Ly Minh Tông** (Hangul: 고려 명종, chữ Hán: 高麗 明宗; 8 tháng 11 năm 1131 – 3 tháng 12 năm 1202, trị vì 1170 – 1197) là quốc vương thứ 19 của Cao Ly.
**Cao Ly Nghị Tông** (Hangul: 고려 의종, chữ Hán: 高麗 毅宗; 23 tháng 5 năm 1127 – 7 tháng 11 năm 1173, trị vì 1146 – 1170) là quốc vương thứ 18 của Cao Ly.
**Cao Ly Túc Tông** (Hangul: 고려 숙종, chữ Hán: 高麗 肅宗; 2 tháng 9 năm 1054 – 10 tháng 11 năm 1105, trị vì 1095 – 1105) là quốc vương thứ 15 của vương triều
**Cao Ly Thuận Tông** (Hangeul: 고려 순종, chữ Hán: 高麗 順宗; 28 tháng 12 năm 1047 – 5 tháng 12 năm 1083, trị vì 1083) là quốc vương thứ 12 của Cao Ly. Ông là
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Lý Thánh Tông** hay **Lý Thánh Tôn** (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị
**Từ Hy** (hangul: 서희, phát âm như: _Xo Hi_, hanja: 徐熙; 942 - 8 tháng 8 năm 998), hay **Seo Hui** là một chính khách, nhà ngoại giao xuất sắc của Cao Ly. Bằng tài
**Cao Ly Thái Tổ**, húy danh là **Vương Kiến** (Hangul: 왕건 (Wang Geon), chữ Hán: 王建, 31/1/877 - 4/7/943), trị vì từ năm 918 tới năm 943. Ông là vị vua đầu tiên đã thành
**Cao Ly** **Cao Tông** (Hangul: 고려 고종, chữ Hán: 高麗 高宗; 3 tháng 2 năm 1192 – 21 tháng 7 năm 1259, trị vì 1213 – 1259) là vị vua thứ 23 của Cao Ly
Ngôi **vua Cao Ly** thuộc về tay dòng họ Vương (왕, 王) qua 34 đời, cai trị từ năm 918 đến năm 1392. ## Hình thành Cao Ly Người mở Vương nghiệp cho nhà Cao
_Cheonsan Daeryeopdo_, "Thiên Sơn đại liệp đồ" do Cung Mẫn Vương họa. **Cao Ly Cung Mẫn Vương** (Hangul: 고려 공민왕; chữ Hán: 高麗 恭愍王; 23 tháng 5 năm 1330 – 27 tháng 10 năm 1374,
**Cao Ly Trung Tông** (Hangul: 고려 충렬왕, chữ Hán: 高麗 忠烈王; 3 tháng 4 năm 1236 – 30 tháng 7 năm 1308, trị vì 1274 – 1308), tên thật là **Vương Xuân** (왕춘, 王賰), còn
**Cao Ly Trung Tuyên Vương** (Hangul: 고려 충선왕; chữ Hán: 高麗 忠宣王; 20 tháng 10 năm 1275 – 23 tháng 6 năm 1325, trị vì 2 lần: năm 1298 và 1308 – 1313) là quốc
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly** (1231 - 1273) là cuộc xâm lăng Vương quốc Cao Ly (vương triều cai trị bán đảo Triều Tiên từ năm 918 đến năm 1392) của Đế quốc
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Đại học Cao Ly** hay **Đại học Hàn Quốc** (Tiếng Hàn: 고려대학교, Tiếng Anh: Korea University hay viết tắt là **KU**, Hanja: 高麗大學校) là một trường đại học của Hàn Quốc, nằm ở trung tâm
**Thiên Lý Trường Thành** trong lịch sử Triều Tiên thường được dùng để đề cập đến kết cấu phòng thủ phương bắc thế kỷ thứ 11 dưới thời Cao Ly, ngoài ra, nó cũng được
**Cao Ly Trung Huệ Vương** (Hangul: 고려 충혜왕; chữ Hán: 高麗 忠惠王; 22 tháng 2 năm 1315 – 30 tháng 1 năm 1344, trị vì 2 lần: 1330 – 1332 và 1340 – 1343) là
Thanh Hóa là tỉnh nằm ở cực bắc của Trung Bộ, có đường biên giới với Lào và có bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ. Với diện tích lớn so với các tỉnh thành, **địa
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
KEM NÁM CAO LY CAOLY đi đúng theo tiêu chí xây dựng thương hiệu lâu dài, sản phẩm chất lượng làm gốc nên đảm bảo các chị kiên trì dùng theo đúng liệu trình chỉ
**Cao Ly dưới sự cai trị của Mông Cổ** đề cập đến sự cai trị của Đế quốc Mông Cổ trên Bán đảo Triều Tiên từ khoảng năm 1270 đến năm 1356. Sau cuộc xâm
Hình vệ tinh NASA chụp phần phía nam cao nguyên Thanh Tạng **Cao nguyên Thanh Tạng** (gọi tắt trong tiếng Trung Quốc của **cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng**) hay **cao nguyên Tây Tạng** (25~40 độ
**_Cao Ly sử_** () là bộ sách lịch sử về nước Cao Ly, giai đoạn họ Vương nắm quyền. Bộ sử được biên soạn sau khi nước Cao Ly sụp đổ gần 100 năm, dưới