✨Vi hoàng hậu (Đường Trung Tông)

Vi hoàng hậu (Đường Trung Tông)

Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi Vi hậu (韋后) hay Vi Thái hậu (韋太后) hoặc Trung Tông Vi Thứ nhân (中宗韋庶人), kế phối, nhưng là Hoàng hậu duy nhất của Đường Trung Tông Lý Hiển, Hoàng đế thứ 4 và thứ sáu của nhà Đường.

Trong cuộc đời của mình, Vi hậu đã hai lần nhận ngôi Hoàng hậu và một lần bị phế truất cùng Trung Tông vào năm 684 bởi mẹ chồng là Võ Tắc Thiên. Sau khi Trung Tông phục vị (705), Vi thị trở lại làm Hoàng hậu, cùng chồng mình tham dự triều chính, thao túng triều cương. Năm 710, Đường Trung Tông bị hạ độc và qua đời, Vi Hoàng hậu lập Lý Trọng Mậu lên ngôi, trở thành Hoàng thái hậu, lâm triều xưng chế. Tuy nhiên chưa đầy nửa tháng sau, Lâm Tri vương Lý Long Cơ và cô mẫu Thái Bình Công chúa hợp sức phát động Chính biến Đường Long, Vi Thái hậu cùng An Lạc Công chúa bị giết chết.

Bà cùng với Võ Tắc Thiên và Thái Bình Công chúa được xem là ba người phụ nữ trực tiếp chuyên chính của triều đại nhà Đường. Có cách nói [Võ Vi chi loạn; 武韋之亂], chính là nói đến hết Võ hậu lại tới Vi hậu làm loạn nhà Đường.

Thân thế

Hoàng hậu Vi thị là người huyện Vạn Niên, phủ Kinh Triệu (nay là Thiểm Tây, Tây An), xuất thân trong một gia đình quan lại giàu có. Gia tộc họ Vi có ba đời phục vụ cho các Hoàng đế nhà Đường, từ ông nội bà Vi Hoằng Biểu (韋弘表) làm quân sư cho con trai nhỏ của Đường Thái Tông là Tào vương Lý Minh. Cha bà là Phổ Châu Tham quân Vi Huyền Trinh (韋玄貞), mẹ là Thôi Phu nhân, xuất thân từ gia tộc Bác Lăng Thôi thị (博陵崔氏), con gái Viên ngoại lang Thôi Phượng Cửu (崔凤举) thời nhà Tùy.

Khi Đường Cao Tông Lý Trị phong đến người Thái tử thứ 4 là Anh vương Lý Triết, Vi thị được nạp vào làm phi cho Thái tử, do người vợ trước của Lý Triết là Triệu thị bị Võ hậu giam cầm và chết đói. Sau ngày thành hôn, Cao Tông phong cho cha bà là Vi Huyền Trinh từ Tham quân của Phổ châu lên làm Thứ sử Dự châu.

Năm Khai Diệu thứ 2 (682), Vi phi hạ sinh Lý Trọng Nhuận, và đây cũng là người con trai duy nhất của bà. Sau đó, Trọng Nhuận được lập làm Hoàng thái tôn. Những năm này, bà lại sinh thêm hai người con gái nữa là Vĩnh Thái Công chúa Lý Tiên Huệ cùng Trường Ninh Công chúa.

Hoàng hậu nhà Đường

Lần đầu và bị giáng

Năm Hoằng Đạo nguyên niên (683), tháng 12, Đường Cao Tông Lý Trị băng hà. Ngày 3 tháng 1 năm Tự Thánh nguyên niên (684) (nhằm ngày Đinh Tị, tháng 12 năm Quý Mùi), Thái tử Lý Hiển kế vị, sử xưng là Đường Trung Tông. Lúc đó, Võ Hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu, nắm mọi quyền hành trong triều. Cũng trong mùa xuân năm ấy, Trung Tông lập Vi thị làm Hoàng hậu.

Đường Trung Tông mới lên ngôi, phải chịu tang Tiên hoàng, mọi việc trong triều đều do Võ Thái hậu quyết đoán. Bà ta nắm trong tay đội Lâm Vũ quân, có mưu đồ xưng làm Hoàng đế. Không lâu sau khi lên ngôi, Trung Tông muốn phong nhạc phụ Vi Huyền Trinh làm Môn hạ tỉnh (Tể tướng), Tể tướng đương nhiệm Bùi Viêm hết sức can ngăn nhưng Trung Tông không nghe, bèn nói chuyện này cho Võ Thái hậu biết. Thái hậu tức giận vì Lý Hiển muốn dùng Huyền Trinh để tước bớt quyền lực của mình, bèn nảy sinh ý định phế lập. Ngày 26 tháng 2 cùng năm, chỉ tầm một tháng sau khi Trung Tông lên ngôi, Võ Thái hậu vào triều, tuyên chiếu phế truất Đường Trung Tông làm Lư Lăng vương (庐陵王) và giam lỏng ở biệt cung. Cùng lúc đó, Võ Thái hậu lập con trai út của mình là Tương vương Lý Đán lên ngôi, tức Đường Duệ Tông.

Tháng 5 ÂL năm ấy, Lư Lăng vương Lý Hiển bị đổi tên là Lý Triết (李哲) và bị lưu đày đến Phòng châu, Vi phi cùng con trai là Lý Trọng Nhuận do cũng bị giáng nên cùng đi theo Lý Triết, trong khi cha bà cùng gia tộc họ Vi bị đày sang Khâm châu, sau đó bị đưa đến Quân châu (cũng thuộc Hồ Bắc). Vào lúc đó Vi thị vốn đã có mang, đến khi đang đi trên đường lưu đày thì sinh ra một người con gái. Nhưng lúc đó không có tã để quấn, Lý Triết phải cởi áo của mình làm tã cho Tiểu Công chúa, bởi vậy Tiểu Công chúa được đặt tên là Khỏa Nhi (裹兒), tức An Lạc Công chúa sau này. Trong hoàn cảnh như vậy lại thuận lợi sinh ra một đứa bé nhỏ nhắn xinh đẹp, Lý Triết và Vi thị đều rất yêu thương Khỏa Nhi.

Ở Quân Châu, vợ chồng Vi thị phải sống trong cảnh thiếu thốn. Vốn là người nhút nhát, Lý Triết rất lo sợ một ngày nào đó sẽ bị mẹ mình giết chết như hai người anh và một người chị trước đây. Mỗi khi có chiếu chỉ của Thái hậu đem đến, Lý Triết đều rất lo sợ, nhiều lần muốn tự sát. Vi thị khuyên chồng rằng:"Việc sống chết chẳng phải do con người quyết định được. Chẳng bằng ta cứ an nhiên chờ đợi, việc gì phải chết nhanh". Do vậy tình cảm của Lý Triết và Vi thị rất sâu đậm. Lý Triết thường nói với bà:"Một ngày nào đó Trẫm được về triều, sẽ không ngăn cấm nàng gì cả".

Lúc này tại triều đình, Võ Tắc Thiên thoán ngôi xưng Đế, giáng Duệ Tông Lý Đán làm Hoàng tự (皇嗣), đổi quốc hiệu là Đại Chu (大周). Sau này, Lý Đán bị Võ Tắc Thiên nghi ngờ và muốn phế truất để đưa cháu mình là Võ Thừa Tự làm Trữ quân. Cuối cùng năm Thánh Lịch nguyên niên (698), theo lời khuyên của Địch Nhân Kiệt, Võ Tắc Thiên cho đón Lý Triết về kinh. Tháng 4 cùng năm, Lý Triết đem theo Vi thị cùng các con về đến Lạc Dương. Sang năm thứ 2 (699), Lý Triết được Võ Tắc Thiên chỉ dụ lập làm Thái tử, cải danh là "Hiển" như cũ, đổi họ thành họ Võ. Do đó Vi thị trở lại làm Thái tử phi.

Năm Đại Túc nguyên niên (701), hai người con lớn của Vi thị là Thiệu vương Võ Trọng Nhuận, Vĩnh Thái Quận chúa Tiên Huệ và chồng của Vĩnh Thái là Võ Diên Cơ (con trai của Ngụy Tuyên vương Võ Thừa Tự) xảy bất mãn với hai sủng nam của Võ Tắc Thiên là Trương Dịch Chi cùng Trương Xương Tông nên có lời phỉ báng. Việc này bị Trương Dịch Chi phát hiện và tố cáo với Võ hậu. Kết quả vào ngày 3 tháng 9 cùng năm, Võ Trọng Nhuận và Võ Diên Cơ bị Võ hậu ban chết, sang ngày hôm sau thì Vĩnh Thái Quận chúa Tiên Huệ cũng qua đời.

Trở lại làm Hoàng hậu

Năm Thần Long nguyên niên (705), ngày 20 tháng 2 (tháng 1, ngày Quý Mão ÂL), các đại thần Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Hoàn Ngạn Phạm, Viên Thứ Kỷ, Lý Đa Tộ và Kính Huy tiến hành biến chính, lật đổ Võ Thái hậu. Ngày 23 tháng 2 (Bính Ngọ tháng giêng), Võ Hiển được đưa lên ngôi lần thứ hai, cải tên là [Lý Hiển], đổi quốc hiệu thành Đại Đường như cũ. Vi thị lại được sách lập làm Hoàng hậu. Hai người con đã chết của bà, lần lượt được truy phong làm Ý Đức Thái tử (懿德太子) và Vĩnh Thái Công chúa (永泰公主). Cha của Vi hậu là Vi Huyền Trinh được truy tôn làm Thượng Lạc vương (上洛王), mẹ Vi hậu là Thôi thị làm Vương phi.

Từ khi phục vị, Vi hậu noi theo Võ Tắc Thiên khi trước, thường cùng Trung Tông lâm triều nghe chính sự, bắt chước Võ hậu ngồi đằng sau bước rèm (gọi là Thùy liêm) để nghe hết các bẩm tấu cùng sự kiện nổi trội đương thời. Có đại thần Hoàn Ngạn Phạm dâng biểu phản đối Vi hậu làm chuyện này, cực kỳ gay gắt. Bài biểu nói:

Trong thời gian này, cháu của Võ hậu là Lương vương Võ Tam Tư có quan hệ lén lút với Chiêu dung Thượng Quan Uyển Nhi, người từng được Võ hậu cất nhắc và cho làm Nữ quan thân tín bên cạnh mình. Bản thân Uyển Nhi thường bơm vào đầu Vi hậu những ý tưởng làm giống như Võ Tắc Thiên khi trước, nên Vi hậu càng quyết liệt hơn. Qua lời giới thiệu của Uyển Nhi, Tam Tư bèn thiết lập quan hệ với Vi hậu. Hai bên lén lút thông gian với nhau, Vi thị thường mượn cớ hầu cờ để gọi Võ Tam Tư đến chỗ mình. Dưới sự tác động của Vi hậu cùng Thượng Quan Uyển Nhi, tín nhiệm Võ Tam Tư, cho tham gia nghị sự, thế lực họ Võ tưởng chừng bị chấm dứt sau sự thoái vị của Võ Tắc Thiên bây giờ lại càng trở nên mạnh mẽ.

Vi hậu lại liên kết với Võ Tam Tư âm mưu chiếm đoạt quyền lực trong triều, gièm pha Trung Tông về cái đại thần đảo chính trước đây, tiêm nhiễm vào đầu Trung Tông những ý tưởng cho rằng các đại thần phù trợ năm ấy cậy công làm càn, lại có ý đảo chính. Dưới sự sắp đặt của bà, 5 đai thần Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Hoàn Ngạn Phạm, Viên Thứ Kỷ và Kính Huy được phong tước Vương nhưng kỳ thực đã bị tước quyền hành. Đại thần Hoàn Ngạn Phạm bị ép đổi sang họ Vi của bà. Sau đó năm người này bị đẩy sang Lạc Dương. Sau đó, Võ Tam Tư lại sai Hoằng Nông Đàm, Nhiễm Tổ Ung và Lý Thuyên tố cáo các đại thần Trương Trọng Chi, Tổ Diên Khánh, Vũ Đường, Chu Cảnh... có âm mưu giết Tam Tư và phế Vi Hoàng hậu. Trung Tông sai điều tra vụ án này. Cuối cùng, các đại thần này bị xử tử. Không lâu sau, đại thần Vương Đồng Hiệu người bất mãn với Vi hậu và Tam Tư, dâng lên khuyên can lên Trung Tông. Vi hậu tức giận, vu khống Vương Đồng Hiệu rồi giết chết. Nhân đó bà gièm pha năm đại thần Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Hoàn Ngạn Phạm, Viên Thứ Kỷ và Kính Huy cũng hợp mưu với Vương Đồng Hiệu rồi nhất loạt đày họ ra châu xa. Đến tháng 7, Vi hậu và Tam Tư sai Chu Lợi Trinh giết chết năm người này trên đường lưu đày. Thủ lĩnh bộ lạc Phất Niết Mạt Hạt là Lý Đa Tộ vì sợ hãi đã giả vờ phục vụ lợi ích của Vi hoàng hậu và đã tránh được việc bị Vi hoàng hậu giết.

Mâu thuẫn với Thái tử

Vi hậu oán ghét người con thứ của Trung Tông là Tả tán kỵ Thường thị Tiếu vương Lý Trọng Phúc - một người con do thị thiếp của Trung Tông sinh ra, nên gièm pha Trọng Phúc có tham gia trong việc xử tử hai người con của bà, nói:"Năm đó Trọng Nhuận bị ép tự sát, là do Trọng Phúc nói trước mặt Tắc Thiên Hoàng đế, nên mới có cơ sự như vậy!". Trung Tông yêu thương Vi hậu, đem Lý Trọng Phúc đày đi Bộc Châu, làm một chức Thứ sử, sau lại chuyển đến Quân Châu, lại mệnh các quan viên các châu đối với Trọng Phúc canh giữ nghiêm ngặt.

Vi hậu cùng con gái là An Lạc Công chúa Lý Khỏa Nhi chuyên chính trong triều vì Trung Tông nhu nhược, thậm chí An Lạc Công chúa còn tự viết chiếu thư ghi tên của Trung Tông truyền xuống, Trung Tông không đọc kỹ lại mà cũng công nhận. Vi hậu dẫn việc Võ hậu, muốn đưa An Lạc Công chúa làm [Hoàng thái nữ; 皇太女], nhưng trước sau Trung Tông không chấp thuận. Thay vào đó, Lý Trọng Tuấn, con trai một thị thiếp được lập làm Hoàng thái tử. Thái tử Lý Trọng Tuấn tuy có danh vị nối ngôi nhưng bị An Lạc Công chúa và chồng là Võ Sùng Huấn (con trai của Võ Tam Tư) xem thường và coi như nô lệ. Vi hậu và An Lạc Công chúa cậy được sủng hạnh, nhiều lần xin Trung Tông phế Trọng Tuấn, lập An Lạc làm Hoàng thái nữ. Lý Trọng Tuấn nghe được tham vọng này của An Lạc Công chúa thì càng mất bình tĩnh.

Năm Thần Long thứ 3 (707), tháng 7, Trọng Tuấn liên kết cùng các Thành vương Lý Thiên Lý, Thiên Thủy vương Lý Hi (con trai của Lý Thiên Lý), Lý Đa Tộ (thủ lĩnh bộ lạc Phất Niết Mạt Hạt), Dã Hô Lợi (con rể của Lý Đa Tộ), Lý Tư Xung, Lý Thừa Huống, Độc Cô Y Chi... đem hơn 300 quân Lâm Vũ khởi loạn, tiến vào giết chết Võ Tam Tư và Võ Sùng Huấn rồi tiến vào cung, giết các đại thần theo phe Tam Tư. Trung Tông cùng Vi Hoàng hậu, Thượng Quan Chiêu dung cùng An Lạc Công chúa đến cửa Huyền Vũ môn, sai Lưu Cảnh Nhân dẫn 100 kị binh hộ vệ. Các đại thần Dương Tái Tư, Tô Côi, Lý Kiệu cùng nhau chia quân giữ Thái Cực điện. Quân đội triều đình bắt đầu tổ chức phòng ngự. Đường Trung Tông lại sai Lưu Nhân Cảnh đem kị binh ra chống trả. Trong khi đó, Lý Đa Tộ và Thái tử bất hòa, Lý Đa Tộ án binh không tiến đánh nữa. Lý Trọng Tuấn lại do dự vì muốn nói chuyện với Đường Trung Tông để tự minh oan cho mình. Trong khi đó, hoạn quan của Đường Trung Tông là Dương Tư Húc (楊思勗) đã dẫn quân phản công, giết chết tướng tiên phong của Lý Đa Tộ là Dã Hô Lợi và làm nản lòng lực lượng đảo chính. Sau đó, Trung Tông sai Dương Tư Húc thuyết phục tướng của Lý Đa Tộ là Thiên Kỵ. Thiên Kỵ bèn giết chết Lý Đa Tộ, Lý Thừa Huống, Độc Cô Y Chi rồi đầu hàng. Lý Trọng Tuấn hoảng sợ bỏ trốn đến Chung Nam Sơn, bị những người hầu giết chết, biến loạn chấm dứt.

Ngày 13 tháng 8 cùng năm, Vi hậu cùng các nhóm vương công đại thần hạ hiểu, xin tôn huy hiệu cho Trung Tông là Ứng Thiên Thần Long Hoàng đế (應天神龍皇帝), Vi hậu là Thuận Thiên Dực Thánh Hoàng hậu (順天翊聖皇后), cải tên Huyền Vũ môn thành Thần Vũ môn. Trung Tông đồng ý tất cả. Sang tháng 9, Trung Tông cải niên hiệu thành Cảnh Long.

Sau khi diệt trừ được Lý Trọng Tuấn, Vi hậu cùng An Lạc Công chúa, thêm những người cùng phe cánh như con gái thứ Trường Ninh Công chúa, chị Vi hậu là Thành Quốc Phu nhân Vi thị, Nữ đạo sĩ Đệ Ngũ Anh Nhân, cùng hại mẹ con Chiêu dung Thượng Quan Uyển Nhi và Phái Quốc Phu nhân Trịnh thị ngày càng trở nên phóng túng và chuyên quyền, tự ý làm việc bán quan tước để thu lợi. Trong khi đó, Vi hậu và An Lạc Công chúa nảy sinh bất hòa với Thái Bình Công chúa - em gái ruột của Đường Trung Tông, hai bên lập bè đảng mưu diệt nhau. Trung Tông biết mà không có cách gì ngăn chặn. Vi Hoàng hậu lại thông gian với Mã Tần Khách và Dương Vận, trong triều liên kết với gian thần Tông Sở Khách, lại tiếp tục xin cho An Lạc Công chúa làm Hoàng thái nữ mà không được.

Mưu xưng Đế và bị giết

Năm Cảnh Long thứ 4 (710), tháng 6, người Định Châu là Lang Ngập tố cáo Vi hậu và Tông Sở Khách nghịch loạn, bị Vi hậu giết chết. Sang tháng 7, Hứa châu Tư binh Tham quân Yến Lan Khâm lại dâng sớ nói rằng:"Hoàng hậu dâm loạn, can dự quốc chính, Vi tộc cường thịnh; An Lạc Công chúa, Võ Diên Tú , Tông Sở Khách kết bè đảng làm nguy xã tắc". Đường Trung Tông không nói gì. Khi ra triều, Tông Sở Khách bí mật sai sát thủ giết Lan Khâm đi. Tuy Trung Tông không hỏi đến việc này, nhưng trong lòng rất nghi ngờ. Vi hậu và bè đảng lo sợ vì Trung Tông bắt đầu thay đổi theo hướng bất lợi cho mình. Mã Tần Khách và Dương Vận thông gian với Vi hậu, cũng sợ một ngày nào đó sẽ bị Trung Tông phát giác. Cộng thêm An Lạc Công chúa muốn Trung Tông nhanh chóng chết để Vi hậu lâm triều xưng chế, thì mình mới có thể làm Hoàng thái nữ. Họ liên kết, bí mật bỏ độc vào bánh của Trung Tông.

Ngày Nhâm Ngọ (ngày 2), tháng 6 năm Canh Tuất (tức 3 tháng 7 năm 710), Đường Trung Tông Lý Hiển bị trúng độc, chết ở Thần Long điện. Vi hậu giấu tin không phát tang, đích thân tạm quản lý triều chính. Bên cạnh đó, bà lại triệu tập các phủ binh đóng trong thành Trường An, lên đến 50.000 người. Sau đó, bà dùng các người họ Vi là Phò mã Đô úy Vi Tiệp (韋捷), Vi Quán (韋灌), Vệ Úy khanh Vi Toàn (韋璇), Trường An lệnh Vi Bá (韋播), cùng Lan tướng Cao Tung (高嵩) chờ lệnh. Sau đó, Vi hậu lại mệnh lệnh Trung thư Xá nhân Vi Nguyên (韋元) tuần tra khắp 6 phố của kinh sư, mệnh Đại tướng quân kim Nội thị Tiết Tư Giản (薛思简) canh giữ Quân Châu, ngăn ngừa Quân Châu Thứ sử là Tiếu vương Trọng Phúc có hành động. Vi hậu mệnh Lại bộ Thượng thư Trương Gia Phúc (张嘉福), Trung thư Thị lang Sầm Hi (岑羲) cùng Lại bộ Thị lang Thôi Thực (崔并) nhậm "Đồng bình chương sự", thực tế lại cho Vi hậu đại quyền.

Vào lúc ấy, Chiêu dung Thượng Quan Uyển Nhi cùng Thái Bình Công chúa soạn một đạo chiếu chỉ, mệnh đứa con nhỏ của Trung Tông là Ôn vương Lý Trọng Mậu làm Hoàng đế, tức Đường Thương Đế. Sau khi bàn định ổn thỏa, triều đình mới chính thức phát tang cho Trung Tông ở Thái Cực điện. Ngày 8 tháng 7, Thương Đế đăng cơ, tôn Vi hậu làm Hoàng thái hậu, lâm triều xưng chế, mệnh An Quốc Tương vương Lý Đán phụ chính, đại xá thiên hạ và cải niên hiệu thành Đường Long. Các thành viên trong gia tộc họ Vi cùng Tông Sở Khách, Triệu Lý Ôn, Diệp Tĩnh Năng lại khuyên bà xưng Đế và loại bỏ người em trai của Trung Tông tức Tương vương Lý Đán. Nhưng kế hoạch này bị con trai Lý Đán là Lâm Tri vương Lý Long Cơ phát hiện. Ngay lập tức, Long Cơ liên lạc với Thái Bình Công chúa để mưu trừ Vi Thái hậu cùng bè đảng An Lạc Công chúa. Thế là Lâm Tri vương Lý Long Cơ, Thái Bình Công chúa cùng các đại quan hợp sức với nhau bàn kế hoạch

Ngày Canh Tí (21 tháng 7), tức 13 ngày sau khi Thương Đế đăng cơ, Lâm Tri vương Lý Long Cơ cùng Dương Tư Húc đưa quân tấn công vào cửa Huyền Vũ môn, trước tiên giết Vi Tuyền, Vi Bá là thân tín của Vi Thái hậu, rồi các tướng sĩ Vũ Lâm quân cũng căm ghét việc Vi Thái hậu sát hại Tiên hoàng, bèn cùng nhau hưởng ứng, kéo vào cung. Long Cơ đóng ở ngoài cửa Huyền Vũ, sai các tướng chia nhau tiến vào cung. An Lạc Công chúa cùng Võ Diên Tú, Thượng Quan Uyển Nhi đều bị giết. Vi Thái hậu bỏ trốn khỏi cung, nhưng cũng bị một người phi kỵ chém đầu, nộp cho Long Cơ. Sử gọi là [Đường Long chi biến; 唐隆之變].

Lâm Tri vương Lý Long Cơ sau đó tôn cha là Tương vương Lý Đán lên ngôi lần thứ hai, rồi đưa thi thể của Vi Thái hậu ra đường để cho dân chúng xem, rồi ra lệnh truy phế mà giáng làm [Thứ nhân; 庶人]. Tuy nhiên sau đó, Duệ Tông Lý Đán lại cho chôn cất bà long trọng theo nghi lễ quan nhất phẩm chứ không phải Hoàng hậu. Do Vi Hoàng hậu sát hại Đường Trung Tông, triều đình nghị luận rồi quyết định không hợp táng Trung Tông cùng Vi hậu mà hợp táng với người vợ thứ nhất là Triệu thị, người được truy tôn thụy hiệu là [Hòa Tư Hoàng hậu].

Hậu duệ

Vi Hoàng hậu có với Đường Trung Tông Lý Hiển tổng cộng 5 người con, 1 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ, bao gồm:

Hoàng trưởng tử Lý Trọng Nhuận [李重润; 682 - 10 tháng 8, 701], nguyên danh Trọng Chiếu (重照), do kị húy tổ mẫu là Võ Tắc Thiên nên đổi thành Nhuận. Ngay khi được sinh ra, Đường Cao Tông Lý Trị yêu mến, phong làm Hoàng thái tôn (皇太孙). Khi Trung Tông trở lại làm Thái tử dưới thời Võ hậu, cải phong làm Thiệu vương (邵王). Cùng em gái Lý Tiên Huệ và chồng là Ngụy vương Võ Diên Cơ bị Võ hậu ép uống thuốc độc, do bất bình với hai anh em sủng nam họ Trương của bà. Về sau truy thụy làm Ý Đức Thái tử (懿德太子).

Hoàng tứ nữ Trường Ninh Công chúa [長寧公主], hạ giá lấy Dương Thận Giao (杨慎交). Do tư sắc diễm lệ, được mẹ là Vi hậu sủng ái. Trong thời kỳ Trung Tông phục vị, cùng An Lạc Công chúa và Thái Bình Công chúa lập phủ vệ riêng, thực ấp vạn hộ, đối đãi không khác gì Thân vương. Tại Lạc Dương, bà mở phủ đệ xa hoa không ai bì. Vi hậu hoành hành, Công chúa tham gia can dự triều chính, mua quan bán chức không còn vương pháp. Khi Đường Minh Hoàng dẹp yên loạn Vi hậu, bà cùng chồng bị biếm đến Giáng châu. Năm 728, Dương Thận Giao qua đời, bà cải giá lấy Tô Ngạn Bá (苏彦伯), sau do liên quan tang án mà bị phế trừ thân phận Hoàng thất. Con trai bà cùng Dương Thận Giao là Dương Hồi (杨洄), về sau lấy Hàm Nghi Công chúa (咸宜公主), con gái của Minh Hoàng và Võ Huệ phi, con gái là Nghi Phương Công chúa sau hạ giá lấy Lý Diên Sủng (李延宠).

Hoàng ngũ nữ Vĩnh Thọ Công chúa [永壽公主], hạ giá lấy Vi Huệ (韦鐬), cháu họ của Vi Chính Cử (韦正矩). Chết trước khi Trung Tông phục vị.

Hoàng thất nữ Vĩnh Thái Công chúa [永泰公主; 685 - 9 tháng 10, 701], tên là Lý Tiên Huệ (李仙蕙), tự Nùng Huy (穠輝), nhan sắc cực kì diễm lệ, được Võ hậu phong làm Vĩnh Thái quận chúa (永泰郡主), hạ giá lấy Ngụy vương Võ Diên Cơ (武延基), con trai của Võ Thừa Chỉ (武承嗣). Về sau do cùng chồng và anh trai Thiệu vương Lý Trọng Nhuận nghị luận Võ hậu sủng nam hai anh em họ Trương, bị ban chết. Trung Tông phục vị, cảm thương con gái chết thảm mà truy tặng làm Công chúa.

Hoàng bát nữ An Lạc Công chúa [安樂公主; 685 - 24 tháng 7, 710], tên gọi Lý Khỏa Nhi (李裹儿), trước lấy Võ Sùng Huấn (武崇训), con trai của Võ Tam Tư, sau lấy Võ Diên Tú (武延秀), con trai của Võ Thừa Chỉ. Tham vọng độc đoán, mưu đồ làm Nữ hoàng, xúi giục Vi hậu giết chết Trung Tông. Bị Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ giết trong Đường Long chính biến.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Thương Đế Lục hoàng hậu** (chữ Hán: 殤帝陸皇后), hoặc **Đường Long hậu** (唐隆后), là Hoàng hậu tại vị trong thời gian rất ngắn (chỉ 17 ngày) trong lịch sử Trung Quốc. Phu quân là Đường
**Hiếu Nghị Tương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝毅襄皇后; 1605 - 1646), Hoàng hậu duy nhất của Minh Thiệu Tông Long Vũ Đế, Hoàng đế thứ hai nhà Nam Minh. Bà cũng là Hoàng hậu đầu
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
**Hòa Tư Hoàng hậu** (chữ Hán: 和思皇后; ? - 7 tháng 5, 675), là nguyên phối của Đường Trung Tông Lý Hiển. Do đắc tội với mẹ Trung Tông là Võ Tắc Thiên, bà bị
**Vi Hiền phi** (chữ Hán:韦贤妃, ? - 809), là phi tần của Đường Đức Tông Lý Quát. Bà nổi tiếng vì việc thờ cúng chồng mình cho đến tận khi qua đời. ## Đường triều
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Túc Minh Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 肅明順聖皇后, ? - 693), là Hoàng hậu của Đường Duệ Tông Lý Đán, một vị Hoàng đế nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Khâm Thánh Hiến Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖獻肅皇后, 1046 - 1101), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Thần Tông Triệu Húc, đích mẫu của Tống Triết Tông Triệu Hú và Tống Huy Tông
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng