✨Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu

Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu

Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi Nguyên Hựu hoàng hậu (元祐皇后), Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu (元祐孟皇后) hay Long Hựu Thái hậu (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Triết Tông Triệu Hú nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc.

Bà từng hai lần ở trên địa vị Hoàng hậu và hai lần bị phế do những tranh chấp chính trị giữa thời Tống Triết Tông và sau đó là Tống Huy Tông.

Năm Nguyên Hựu thứ 7 (1092), Tống Triết Tông Triệu Húc được 17 tuổi, Tuyên Nhân Cao Thái hoàng tuyển hơn 100 người con gái có dung mạo xinh đẹp từ các nhà danh giá vào cung. Năm đó Mạnh thị 16 tuổi, ôn hòa cẩn trọng mà nhan sắc đoan chính, rất được Cao Thái hoàng và mẹ cả của Triết Tông là Hướng Thái hậu yêu quý.

Cùng năm đó, tháng 2, Cao Thái hoàng triệu các đại thần, liên danh bàn nghị chuyện lập ai trong các thục nữ làm Hoàng hậu, tác phối với Hoàng đế. Khi ấy nghị luận gia thế, xét Mạnh Tại vốn là một tiểu quan, làm đến Hợp Môn chỉ hầu (閤門祗候) không mấy vẻ vang nhưng lại yên ổn không kiêu ngạo, Cao Thái hoàng hỏi nhà họ Mạnh tử tế hay không, đứng đầu các quan Xu mật viện là Hàn Trung Ngạn (韓忠彥) nói:「"Mạnh Tại tuy là quan nhỏ nhưng là người hiền, gia cảnh yên bình, không sinh chuyện"」. Thái hoàng lại dụ:「"Không nên tuyển người từ gia tộc quyền quý, vì quyền quý tất kiêu ngạo, mà kiêu ngạo không dễ giáo dưỡng"」, Trung Ngạn tâu:「"Như người nhà Mạnh Tại đều xuất thân hộ nhỏ, không hề kiêu ngạo. Từ lâu không sinh ra nơi quyền quý, tất sẽ biết cẩn trọng"」. Sau một hồi bàn quyết, ngày 2 tháng 4 (âm lịch), Cao Thái hoàng chọn Mạnh thị làm Hậu, cho mệnh Thượng thư Tả bộc xạ Lã Đại Phòng chuẩn bị nghi giá, thực hiện nghi lễ sách lập Hoàng hậu cho Mạnh thị rất trịnh trọng, dụ rằng:「"Mạnh thị hiểu thông tuệ lễ nghi, nay lập vị Trung cung"」.

Thế rồi, Thái hoàng mệnh chiếu Hàn lâm, Đài gián cùng các Xá đều cật lực thảo dụ lại sách lập Hoàng hậu, cuối cùng chiếu dụ dùng ["Sách Hậu lục lễ"; 冊后六禮] để tiến hành sách Hậu đại điển. Khi Mạnh thị vừa vào cung, Thái hoàng thái hậu bảo với tả hữu rằng:「"Người này hiền thục, nhưng phận bạc. Ngày khác quốc gia có sự biến thì e phải mang vạ trước tiên"」.

Hoàng hậu và bị phế

Tháng 5 năm đó, ngày Mậu Tuất (16), Triết Tông lên Văn Đức điện (文德殿) làm lễ sách lập Mạnh thị làm Hoàng hậu.

Đại điển sách lập của Mạnh hậu được chép lại rất quy mô. Ngày ấy, mệnh Thượng thư Tả phó xạ Lã Đại Phòng nhiếp Thái úy, sung làm Phụng nghênh sứ, Đồng tri Xu Mật viện Hàn Trung Ngạn nhiếp Tư đồ làm Phó. Thượng thư Tả thừa Tô Tụng nhiếp Thái úy sung Phát sách sứ, Thiêm thư Xu Mật viện sự Vương Nhan Tẩu (王岩叟) nhiếp Tư đồ làm Phó. Thượng thư Tả thừa Tô Triệt nhiếp Thái úy sung Cáo kỳ sứ, Hoàng thúc tổ Đồng tri Đại tông chính sự Triệu Tông Cảnh (趙宗景) nhiếp Tông chính khanh làm Phó. Hoàng bá tổ Phán đại tông chính sự Cao Mật quận vương Triệu Tông Thịnh (趙宗晟) nhiếp Thái súy sung Nạp thành sứ, Hàm lâm học sĩ nhiếp Tông chính khanh làm Phó. Lại bộ Thượng thư Vương Tồn (王存) nhiếp Thái úy sung Nạp cát sứ, Quyền Hộ bộ Thượng thư Lưu Phụng Thế (劉奉世) nhiếp Tông chính khanh làm Phó. Hàn lâm học sĩ Lương Đảo (梁燾) nhiếp Thái úy sung Nạp thái-Vấn danh sứ, Ngự sử Trung thừa Trịnh Ung (鄭雍) nhiếp Tông chính khanh làm Phó. Sau lễ sách lập, tiến phong cha của Hoàng hậu là Hợp Môn Chỉ hầu Mạnh Tại làm Tông nghi sứ, kiêm Thứ sử Vinh Châu; mẹ là Vương thị làm Hoa Nguyên quận quân (華原郡君).

Tuy nhiên, Tống Triết Tông lại không sủng ái Mạnh hậu mà thương yêu một tần ngự khác là Lưu Tiệp dư, một cung nhân có sắc đẹp yêu mị, quyến rũ và rành rẽ thuật hầu hạ, khiến Triết Tông say đắm lắm. Lưu Tiệp dư được sủng ái thì sinh ra kiêu căng, ngạo mạn, không coi Mạnh hậu ra gì. Sau khi đại hôn, Mạnh hậu với Triết Tông chỉ có một con gái là [Phúc Khánh công chúa; 福慶公主]. Đến khi Cao Thái hoàng qua đời (1093), tình hình của Mạnh hậu càng tệ hơn.

Năm Thiệu Thánh thứ 3 (1096), theo lệ thì Hoàng hậu và các phi tần đến tế ở Cảnh Linh cung, lễ xong thì Hoàng hậu và các phi tần được ngồi. Lưu Tiệp dư không thèm để ý, một mình bỏ đi xem hoa, ai cũng lấy làm bất bằng. Đến mùa đông cùng năm, Mạnh hậu dẫn các phi tần đến Long Hựu cung yết kiến Hướng Thái hậu. Mạnh hậu theo lệ được ngồi ở ghế trên, các phi tần phải ngồi ở hai bên, Lưu tiệp dư không muốn, mặt biến sắc; người đi theo lấy ghế của Tiệp dư đặt ngang chỗ Mạnh hậu, Tiệp dư mới chịu ngồi. Thái hậu vừa lên điện, phi tần đứng dậy thỉnh an, đến khi Tiệp dư ngồi xuống thì chiếc ghế biến đâu mất, Tiệp dư ngã sóng xoài; sau đó trở về khóc lóc với Triết Tông. Lưu Tiệp dư dần có hiềm khích với Mạnh hậu, tìm cách lật đổ, bèn cùng Nội thị Hác Tùy (郝隨) liên lạc với Chương Đôn, Thái Kinh bên ngoài.

Mùa thu năm ấy, con gái Mạnh Hoàng hậu là Phúc Khánh công chúa bị bệnh; có người chị của bà thường ra vào cung cấm, biết chuyện đó liền đi xin một lá bùa trừ tà cho công chúa và mời đạo sĩ vào cung làm phép. Mạnh hậu biết chuyện, sợ mang vạ nên nói lại với Triết Tông. Hoàng đế ban đầu cho là chuyện thường tình của con người, không trách tội gì, Mạnh hậu bèn đốt lá bùa trước mặt Triết Tông. Tuy nhiên, tin tức này đã lan truyền trong cung, lời dị nghị nổi lên.

Về sau, Đổng Đôn Dật cắn rứt lương tâm, xin xét lại án, Tăng Bố can là không nên. Tống Triết Tông thôi không xét nữa nhưng vẫn thầm trách Chương Đôn. Còn Lưu Tiệp dư sau khi hạ sinh hoàng tử thì được lập làm Hoàng hậu. Tuy nhiên, vị hoàng tử này chào đời mới hơn một tháng đã qua đời.

Phục giáng liên tiếp

Năm Nguyên Phù thứ 3 (1100), ngày 23 tháng 2, Triết Tông băng hà sau 15 năm trị vì, thọ 23 tuổi. Em Triết Tông là Đoan vương Triệu Cát nối ngôi, tức là Tống Huy Tông. Bấy giờ, Hướng Thái hậu thùy liêm đồng thính chính, chủ trương chèn ép Tân đảng mà trọng dụng Cựu đảng, xin cho Mạnh hoàng hậu phục vị. Tống Huy Tông cho đón Mạnh hoàng hậu trở về cung, do vai vế của Mạnh hậu là Hoàng tẩu (vợ của anh), không thể tôn làm Hoàng thái hậu nên Mạnh hậu được tôn huy hiệu làm Nguyên Hựu Hoàng hậu (元祐皇后), còn Lưu hoàng hậu là Nguyên Phù Hoàng hậu (元符皇后). Khi ấy, trong cung có 2 vị Hoàng tẩu Hoàng hậu. Con gái nhỏ Phúc Khánh công chúa của Mạnh hậu, vào lúc khi Huy Tông lên ngôi đã được truy tặng làm Đặng Quốc công chúa (邓國公主). Năm sau (1101), mùa xuân, Hướng Thái hậu qua đời, Cựu đảng ủng hộ Mạnh hậu bị mất chỗ dựa.

Năm Sùng Ninh nguyên niên (1102), xảy ra Nguyên Hựu đảng nhân sự kiện, Cựu đảng ủng hộ Mạnh hậu bị phế trừ. Bấy giờ, Lưu hậu căm ghét việc Mạnh hậu phục vị nên giật dây cho Phùng Hải (馮澥) dâng sớ chỉ trích Hàn Trung Ngạn, nói Nguyên Hựu Hoàng hậu không đáng phục vị, lại thêm Thái Kinh, Triệu Đĩnh Chi (趙挺之), Trương Thương Anh (張商英) ra sức hùa vào, Tống Huy Tông bất đắc dĩ phải đưa Mạnh hậu trở lại Diêu Hoa cung, lấy hiệu Hi Vi Nguyên Thông Tri Hòa Diệu Tĩnh tiên sư (希微元通知和妙靜仙師). Từ đó, Mạnh hậu lại trải qua tiếp hơn 20 năm kiếp sống tu đạo. Khi đó, Lưu hậu được tôn làm Sùng Ân Thái hậu, sau do kiêu ngạo quá độ, muốn can dự cả việc bên ngoài, tư thông với nhiều người nên bị Tống Huy Tông kiêng dè. Năm Chính Hòa thứ 3 (1113), Tống Huy Tông cùng quần thần nghị định rồi phế truất, Lưu Thái hậu uất ức tự sát.

Năm Tĩnh Khang nguyên niên (1126), đời Tống Khâm Tông, Diêu Hoa cung bị hỏa hoạn, Mạnh hậu dời sang Diên Ninh cung. Rồi Diên Ninh cung cũng gặp lửa, bà lại sang ở chỗ Tư trạch Tướng quốc tự tiền. Tống Khâm Tông cùng quần thần nghị định, muốn khôi phục địa vị cho bà, gọi là Nguyên Hựu Thái hậu (元祐太后). Tuy nhiên, việc đang giữa chừng thì thành Biện Kinh bị người Kim vây hãm. Năm thứ 2 (1127), tháng giêng, Biện Kinh thất thủ, Tống Khâm Tông và Tống Huy Tông bị người Kim bắt làm tù binh, Bắc Tống diệt vong. Sau đó, quân Kim áp giải toàn bộ tông thất nhà Tống đã bắt được lên phía bắc, duy Mạnh hậu do đã bị phế nên không bị giải đi.

Cuộc đời thăng trầm

Phục vị lần thứ hai

Khi ấy, người Kim lập Thái tể Trương Bang Xương làm Sở Đế ở Trung Nguyên. Bang Xương tuy có dã tâm tự lập chính quyền, nhưng biết dân chúng vẫn còn nhớ đến triều Tống, bèn nghe theo kiến nghị của Lã Hảo Vấn, sai người rước Mạnh hoàng hậu vào cung, tôn làm 「Tống Thái hậu; 宋太后」 ở Diên Phúc cung (延福宮), nghi lễ giống hệt như khi xưa Tống Thái Tổ đón Chu Thái hậu. Về sau các đại thần trung thành với Tống như Hồ Thuấn Trắc (胡舜陟), Mã Thân (馬伸) đồng loạt dâng sớ ép Bang Xương cho Mạnh Thái hậu buông mành nghe chính, Bang Xương bất đắc dĩ phải nghe theo, khôi phục Mạnh Thái hậu danh hiệu 「Nguyên Hựu Hoàng hậu」, đón vào cung để thùy liêm thính chính.

Lúc bấy giờ, Tông thất triều Tống chỉ còn có Khang vương Triệu Cấu tại Tế Châu, thế là Mạnh Thái hậu sai Thượng thư Tả Hữu thừa Phùng Hải (馮澥), Lý Hồi (李噲) cùng người cháu là Mạnh Trung Hải (孟忠澥) mang thư đón về kinh. Lại mệnh Phó đô chỉ huy sứ Quách Trọng Tuân đem người tới hộ vệ, Ngự doanh Tiền quân Thống chế Trương Tuấn bắt được thư viết tay của Thái hậu liền đem bố cáo thiên hạ để tranh thủ sự ủng hộ cho Khang vương.

Năm ấy ngày 12 tháng 6, Khang vương Triệu Cấu tức vị Hoàng đế ở Nam Kinh, tức là Tống Cao Tông, lập ra triều Nam Tống. Mạnh Thái hậu nghe tin Khang vương lên ngôi, liền bỏ việc buông rèm, chính sự toàn quyền cho Cao Tông quyết định. Cao Tông hoàng đế ra chỉ tấn tôn Mạnh Thái hậu làm Nguyên Hựu Thái hậu (元祐太后), không có chữ ["Hoàng"], nên lúc này Mạnh hậu chưa phải Hoàng thái hậu. Thượng thư tỉnh dâng sớ nói chữ "Nguyên" phạm vào tên của ông nội Mạnh Thái hậu đã được công bố trước đó, vì thế triều đình lại quyết định đổi tôn hiệu của bà là Long Hựu Thái hậu (隆祐太后). Mùa thu năm ấy, quân Kim lại Nam hạ, Cao Tông hoảng hốt bỏ chạy về Dương Châu, mệnh Trọng Tuân hộ vệ Long Hựu Thái hậu đi trước, trú ở trị sở Dương Châu. Về sau, quân Kim lại đánh đến nữa, Cao Tông lại bỏ Dương Châu; Trương Tuấn xin định chỗ ở của lục cung, sai Mạnh Trung Hậu đưa thái hậu đến Hàng Châu, cho Miêu Phó (苗傅) làm Hỗ tùng Thống chế. Long Hựu Thái hậu phong Miêu Phó là Tiết độ sứ của Vũ Đường quân, Lưu Chính Ngạn là Tiết độ sứ của Vũ Thành quân. Mạnh Thái hậu theo lời Chu Thắng Phi (朱勝非), mỗi lần gặp bọn Miêu, Lưu đều ân cần úy dụ, khiến hai người vui mừng không nghi kỵ gì. Lúc đó, Thái hậu ngầm dụ Hàn Thế Trung, Trương Tuấn, Lã Di Hạo và vợ Thế Trung là Lương Hồng Ngọc ở ngoài lo việc Cần vương. Miêu, Lưu thấy quân Cần vương các nơi kéo đến, rất lo sợ, lại nghe theo Chu Thắng Phi, quyết định nhận tội và lập lại Cao Tông lên ngôi.

Ngày 20 tháng 4 (tức ngày 1 tháng 4 âm lịch), Miêu Phó thỉnh chiếu thư của Long Hựu Thái hậu, đưa Duệ Thánh Nhân Hiếu Hoàng đế lên ngôi lần thứ hai. Chu Thắng Phi vẫn sợ Miêu Phó đổi ý nên xin Long Hựu Thái hậu hạ lệnh xá miễn cho Miêu và Lưu. Hai người dẫn bách quan đến mời Cao Tông phục vị. Hôm sau, Long Hựu Thái hậu trả lại triều chính, Cao Tông được về hành cung phục ngôi. Cao Tông đứng trước Long Hựu Thái hậu, tuyên sách tôn làm Hoàng thái hậu, tôn hiệu Long Hựu Hoàng thái hậu (隆祐皇太后).

Cuối đời

Hoàng thái hậu Mạnh thị nghe Trương Tuấn là người trung nghĩa, nên bàn với Cao Tông, muốn được gặp mặt. Lại có Thừa nghị lang Phùng Tiếp đứng ra yêu cầu Miêu Phó phục ngôi cho Cao Tông, Thái hậu đề nghị thăng chức cho ông ta, Cao Tông đồng ý. Không bao lâu sau, Cao Tông đến Kiến Khang, mệnh Thiêm thư Xu mật viện sự Trịnh Giác hộ vệ Thái hậu. Khi đến nơi thì Cao Tông lại chạy nữa, lệnh cho Lưu Ninh làm Chế trí sứ Giang Chiết, hộ vệ Thái hậu đến Hồng châu. Mệnh bọn Đằng Khang, Lưu Giác cũng đi theo; sau còn sai Tứ Sương đô chỉ huy sứ Dương Duy Trung dẫn quân theo hộ vệ. Trên đường đi, nội thị và cung nhân chết hơn 10 người, duy Thái hậu vẫn vô sự.

Qua đời

Thiệu Hưng nguyên niên (1131), tháng 4, ngày Canh Thìn, Long Hựu Hoàng thái hậu Mạnh thị qua đời ở điện Tây của hành cung, thọ 59 tuổi.

Cao Tông buồn bã, dụ nói:「"Trẫm lấy kế thể làm trọng, đương nên trọng phục, phàm lễ nghi của Thái hậu đều dùng lễ Mẫu hậu lâm triều"」. Bà được an táng ở Thượng Hoàng thôn, huyện Cối Kê, Chiết Giang. Tháng 6, ngày Nhâm Thân, bà được tôn thụy hiệu là Chiêu Từ Hiến Liệt Hoàng hậu (昭慈獻烈皇后), là thụy 4 chữ theo tiêu chuẩn "Nữ hậu xưng Chế" bắt đầu từ Chương Hiến Lưu Thái hậu. Tháng 8, bài vị của Chiêu Từ Hiến Liệt hoàng hậu được đặt trong miếu Tống Triết Tông tại Ôn Châu, đặt trên cả bài vị của Chiêu Hoài Lưu Hoàng hậu. Sang năm thứ 3 (1133), Cao Tông ân chuẩn cho đổi thụy hiệu Chiêu Từ Hiến Liệt Hoàng hậu thành Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu (昭慈聖獻皇后), gia ân cho người trong họ được hơn 50 người.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Thánh Hiến Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖獻皇后 hoặc 聖憲皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách Thánh Hiến Hoàng Hậu (聖獻皇后)
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Hiến Tiết Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲節皇后; 1106 - 1139), tên thật **Hình Bỉnh Ý** (邢秉懿), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Cao Tông Triệu Cấu. Tuy được phong Hậu, nhưng
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝德顯皇后, ; 12 tháng 4 năm 1831 - 24 tháng 1 năm 1851), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế khi ông
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hiển Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:顯皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Hậu Đường Minh Tông Vũ Hòa Hiển hoàng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Túc Minh Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 肅明順聖皇后, ? - 693), là Hoàng hậu của Đường Duệ Tông Lý Đán, một vị Hoàng đế nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
nhỏ|Chiêu Hiến Hoàng hậu trong bộ lễ phục, ảnh chụp năm 1872 , hay , là Hoàng hậu của Đế quốc Nhật Bản, chính cung của Thiên hoàng Minh Trị. ## Thời thơ ấu Lúc
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞純皇后; ? - 20 tháng 3, 1518), còn gọi **Từ Thánh Thái hoàng thái hậu** (慈聖太皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Gia Từ hoàng hậu** (chữ Hán: 嘉慈皇后, ? - tháng 10, 1381), là một hoàng hậu nhà Trần với tư cách là nguyên phối của Trần Duệ Tông, bà là mẹ sinh ra Trần Giản
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Thánh Nhân Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖仁皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Thanh Thánh Tổ đệ nhất nhiệm Thánh
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ