✨Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu

Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu

Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế.

Với tư cách là con gái của Thái sư Nhất đẳng Công Át Tất Long - một trong Tứ trụ đại thần thời Khang Hi, có thể nói Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu trong suốt cuộc đời bị giằng xé bởi vấn đề chính trị. Do cha bà Át Tất Long cùng Ngao Bái có quan hệ tốt, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu từ nhỏ cũng là con gái nuôi của Ngao Bái - kẻ thù chính trị đầu tiên của Khang Hi Đế. Cũng chính vì nguyên do này, ngay từ khi tham dự tuyển chọn hậu phi, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu đã là một biểu tượng chính trị quan trọng trong hậu cung thời Khang Hi.

Sau khi Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu qua đời, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu kế vị Trung cung. Dẫu là một [Lương phối] đắc lực của Khang Hi Đế, cũng như nhận được sự yêu thương của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu cùng Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu, nhưng vấn đề chính trị đan xen giữa cái chết của cha bà, cùng sự xấu hổ của xuất thân dường như đã thành áp lực, khiến bà qua đời chỉ 6 tháng sau khi tuyên bố sách lập.

Tiểu sử

Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị.

Dòng dõi cao quý

Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu sinh vào năm Thuận Trị thứ 10 (1653), xuất thân từ dòng họ Nữu Hỗ Lộc thị của Mãn Châu, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Xuất thân của bà vào lúc đó rất hiển hách. Dòng họ Nữu Hỗ Lộc thị là một thế gia ở Trường Bạch Sơn, đời đời thế tập Lộ trưởng tại Anh Ngạch địa phương, có thể xem là đại danh môn.

Tổ phụ là Hoằng Nghị công Ngạch Diệc Đô, trong những năm chinh chiến dưới trướng Nỗ Nhĩ Cáp Xích, ông thường được giao chỉ huy đội quân [Tương Hoàng kỳ] của Mãn Châu, thường giành được nhiều thắng lợi, đặc biệt trong chiến dịch Bố Đạt Lý đã chém được hàng chục tướng quân nhà Minh. Do vậy, Ngạch Diệc Đô về sau trở thành Đại công thần thuở đầu Đại Thanh, được đặc biệt phối thờ Thái miếu. Do công lao lớn, gia tộc Nữu Hỗ Lộc nhánh Hoằng Nghị công được xem là ["Danh môn trung danh môn"], đứng đầu thế gia Bát kỳ Mãn Châu. Ngạch Diệc Đô có 16 người con trai, phụ thân Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu là Át Tất Long, là con trai thứ 16 của Ngạch Diệc Đô.

Gia thế hiển hách

Át Tất Long là con trai của Ngạch Diệc Đô với con gái thứ tư của Thanh Thái Tổ - Hòa Thạc Công chúa Mục Khố Thạp (穆库什). Từ thời Thanh Thái Tông, Át Tất Long đã nhiều lần lập quân công, đến thời Thuận Trị do có công lao chém cháu của Lý Tự Thành là Lý Cẩm, thăng [Nhị đẳng Giáp Lạt Chương Kinh; 二等甲喇章京], sau do tập tước của Đồ Nhĩ Cách (图尔格) mà thăng [Nhất đẳng Công], kiêm Nghị chính Đại thần, Lãnh Thị vệ Nội đại thần, gia thêm "Thái tử Thái bảo" (太子太傅) vinh hàm. Khi Thuận Trị Đế giá băng, Át Tất Long cùng Sách Ni, Tô Khắc Xa Cáp và Ngao Bái nhận mệnh phụ chính Khang Hi Đế, trở thành một trong Tứ trụ đại thần quyền khuynh thiên hạ.

Khi Khang Hi Đế thân chính, tuyên dương công thần, Át Tất Long được gia thăng ["Nhất đẳng Công"; 一等公] kế thừa từ anh trai Đồ Nhĩ Cách, thêm chức Thái sư. Át Tất Long có 3 vợ cả, người đầu là con gái Anh Thân vương A Tế Cách, anh trai trưởng của Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn; kế thê là con gái Dĩnh Thân vương Tát Cáp Lân, và người nữa là tam kế thê Ba Nhã Lạp thị (巴雅拉氏), sinh ra A Linh A (阿灵阿), là em trai út của bà. Mẹ ruột của bà là người họ Thư Thư Giác La thị (舒舒觉罗氏), là Trắc thất của Át Tất Long, ngoài bà thì Thư Thư Giác La thị còn sinh ra Ôn Hi Quý phi và Pháp Khách (法喀).

Do hai con trai đích tử trước sớm chết, Pháp Khách trở thành trưởng tử của cha bà, cưới con gái Tôn Thất A Nhan Đồ (阿颜图), sau cưới Hách Xá Lý thị là em gái của Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu. Khi bà còn nhỏ, do cha bà Át Tất Long có qua lại với đại thần Ngao Bái, người đứng đầu Tứ trụ đại thần nên được Ngao Bái nhận làm nghĩa nữ.

Tuyển chọn thất bại

Khi Khang Hi Đế đến tuổi tầm 12 tuổi, Tứ trụ đại thần và triều đình tiến hành cân nhắc xem người được chọn làm Hoàng hậu cho Khang Hi Đế. Khi đó, thế lực Ngao Bái cường thịnh, ngày càng không xem vị Hoàng đế nhỏ tuổi ra gì, còn Sách Ni là lão thần 3 triều, áp dụng lấy lui vì tiến sách lược, không hay đụng chạm đến Ngao Bái. Trong đợt tuyển chọn Hoàng hậu đó, có con gái của Ngao Bái, con gái của Át Tất Long cùng cháu gái của Sách Ni là dự tuyển hàng đầu. Tuyển ai làm Hoàng hậu, thì tất nhiên gia tộc của Hoàng hậu cũng sẽ theo đó lớn mạnh. Ngao Bái cuồng vọng lúc đó không ai không biết, Chiêu Thánh Thái hoàng thái hậu đem con gái ông ta loại ngay từ sớm. Át Tất Long là một người gió chiều nào theo chiều nấy, bỏ mặc thì không thể, nhưng không thể hoàn toàn dựa vào, nên Nữu Hỗ Lộc thị nhập cung với vị trí Phi tần.

Năm Khang Hi thứ 4 (1665), Nữu Hỗ Lộc thị được cho là nhập cung cùng với Hách Xá Lý thị, cháu gái của đại thần Sách Ni. Có thể thấy, Nữu Hỗ Lộc thị gia thế cực đại tôn quý, nếu so với Hách Xá Lý thị có thể nói là vượt hơn. Vì bởi lẽ, Sách Ni tuy là Phụ chính đaị thần, quan hàm cao quý, song xuất thân Hách Xá Lý thị rất thấp, chỉ là Hải Tây bộ nhân, không có chức Bộ trưởng hay Lộ trưởng, trong khi đó Át Tất Long xuất thân Nữu Hỗ Lộc thị cao quý, thế tập Lộ trưởng của Anh Ngạch địa phương. So sánh thì dòng dõi của Sách Ni hoàn toàn thua xa.

Sau sự kiện này, Nữu Hỗ Lộc thị không còn được đề cập. Các quan niệm khi xưa nhận định Nữu Hỗ Lộc thị có lẽ được giữ lại trong hậu cung, và trở thành Phi - tước vị mà bà được đề cập khi được lập làm Kế Hoàng hậu về sau. Nhưng thực tế, căn cứ tư liệu Mãn văn của chuyên gia người Mãn là Quất Huyền Nhã (橘玄雅) tổng hợp được, tuy Át Tất Long quả thực có một người con gái còn lưu lại trong cung, nhưng tuổi còn quá nhỏ, còn phải đưa Nhũ mẫu vào cùng. Dựa theo tuổi tác này, không có khả năng là Nữu Hỗ Lộc thị - con gái lớn của Át Tất Long. Trong hậu cung Khang Hi lúc ấy, ngoài Hoàng hậu là Hách Xá Lý thị, chỉ còn vài Thứ phi không danh phận, hoàn toàn không có ai đãi ngộ hàng ["Phi"] thời kỳ đầu như đề cập về Nữu Hỗ Lộc thị trong sách văn lập Hậu những năm sau. Tung tích về Nữu Hỗ Lộc thị hoàn toàn không có.

Năm Khang Hy thứ 8 (1669), Hoàng đế trừng trị Ngao Bái, Thái sư Quả Nghị công Át Tất Long vì là đồng đảng của Ngao Bái cũng bị giam vào ngục. Khang Thân vương Kiệt Thư chiếu theo 12 hạng tội danh hạch hỏi Át Tất Long, bị xử vào tội chết nhưng chỉ bị cách chức tước về làm dân thường. Năm Khang Hy thứ 9 (1670), Hoàng đế niệm tình ông là cố mệnh đại thần tuy bị tước hết chức tước nhưng riêng tước "Nhất đẳng công" vẫn cho con thế tập. Sang năm thứ 12 (1673), Át Tất Long qua đời tại phủ đệ.

Phong Phi lập Hậu

Năm Khang Hi thứ 13 (1674), Hách Xá Lý Hoàng hậu hạ sinh Hoàng nhị tử Dận Nhưng rồi qua đời do băng huyết. Khang Hi Đế đau buồn, truy phong Hách Xá Lý thị làm "Nhân Hiếu Hoàng hậu" và đích thân nuôi dưỡng Dận Nhưng, lập làm Thái tử và có ý không lập Hậu nữa.

Năm Khang Hi thứ 15 (1676), xuất hiện ghi chép về [Phi Nữu Hỗ Lộc thị] tiến cung. Cùng với bà là Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu Đông thị, và khác với Nữu Hỗ Lộc thị, Đông thị tuy dù chỉ là thân phận Thứ phi, xưng gọi "Cách cách", nhưng lại có thể hưởng đãi ngộ hàng Phi ngang với bà. Tuy chưa rõ là có tiền lệ hay không, nhưng nếu thời gian vừa qua quả thật Nữu Hỗ Lộc thị không ở trong cung, thì hẳn là đã trượt Tuyển chọn Hậu phi, sau lại lần nữa được triệu vào, phong làm Phi, cũng không xem là việc thường thấy. Việc bà vào cung cùng lúc với Đông thị, cơ hồ là để dự trù ai phong Phi và lập Hậu, do sang năm thì Hoàng đế đã phong tước gần như cả hậu cung. Khang Hi Đế từng gọi bà là [Nội đình chi lương tá; 内廷之良佐], hay [Lương phối; 良配], điều này cho thấy địa vị phụ tá nội đình của bà cực cao, hoặc ít nhất đó là lời tán thưởng của Khang Hi Đế nhằm biểu thị vị trí tương lai của bà.

Năm Khang Hi thứ 16 (1677), ngày 11 tháng 5, Hoàng đế dụ: "Dụ Lễ bộ, trẫm cung phụng Thánh tổ mẫu Thái hoàng thái hậu từ dụ, sắc lập con gái của Át Tất Long vì Hoàng hậu, Lễ bộ lập tức lựa chọn ngày cưới, khai đều nghi tới tấu, đặc dụ Lễ bộ". Tháng 8, Quảng Tây đạo Ngự sử Hách Dục (郝浴) nói, sách lập Hoàng hậu đại lễ tương hành, thỉnh đình chỉ Thu quyết năm nay. Ngày 22 tháng 8, Phi Nữu Hỗ Lộc thị được sách lập làm Hoàng hậu. Hoàng đế khiển quan viên tế cáo Thái miếu, Thiên địa. Hôm đó, Hoàng đế ngự Thái Hòa điện, khiển Đại học sĩ Sách Ngạch Đồ làm Chính sứ, Đại học sĩ Lý Úy (李霨) làm Phó sứ, cầm cờ tiết thụ Phi Nữu Hỗ Lộc thị nhận sách bảo sách lập Hoàng hậu.

Sách văn rằng:

Quyết định sách lập hoàng hậu, trước đó đã bổ sung lễ nạp thải, được tổ chức long trọng như đại hôn lễ. Ngày Khang Hi Đế sách lập Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị, Hoàng đế đích thân suất Chư vương, Bối lặc, Bối tử, Công cùng Nội đại thần, Đại học sĩ, Đô thống, Thượng thư, Tinh kỳ ni ha phiên, Thị vệ các cấp đến Lưỡng tôn cung hành lễ. Giờ Mão, Khang Hi Đế ngự Thái Hòa điện. Chư vị Vương, Bối lặc, Bối tử, Công, văn võ các quan, thượng biểu ăn mừng. Ban chiếu thiên hạ. Ngày hôm sau, Hoàng hậu đến Lưỡng tôn cung cùng Đế tọa hành lễ.

Theo Trương Thành nhật ký (张诚日记), là quyển nhật ký của quan người Pháp tên Jean-François Gerbillon đang làm việc tại triều đình, Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị [‘’Sinh khó mà chết"], ám chỉ Hoàng hậu qua đời do sinh non. Nhưng căn cứ Thanh thực lục cùng những hồ sơ Mãn văn được Quất Huyền Nhã cung cấp, không hề có điều gì đề cập Hoàng hậu sinh non. Chỉ có ở khoảng đầu năm Khang Hi thứ 17 (1678), tháng giêng, một nhóm quan viên Nội vụ phủ đã cùng nhau viết tấu lên Khang Hi Đế một văn bản khá dài, các vị này nhiều năm chịu ân điển của Hoàng đế, không có gì để báo đáp, lại nghe nói Hoàng hậu ["Quý thể bất hòa"], ["Lược hữu bất an"], các vị này thật sự lo lắng, nên tìm kiếm Đạo sĩ (mấy vị này đều là người Hán, nên tìm Đạo sĩ), muốn vì Hoàng hậu mà làm lễ cầu an. Liệt kê thật nhiều nghi thức, nhạc cầu an, chùa cầu an, ngũ nhạc, thập sơn,... lại còn muốn dựng Tế đàn cầu phúc, phí làm đều chính bọn họ xuất ra. Khang Hi Đế xem xong, hồi đáp lại tiền làm các nghi thức này sẽ nói Nội vụ phủ trích ra. Nhìn qua hồ sơ này có thể thấy, đến đầu năm Khang Hi thứ 17, nửa năm sau khi lập làm Hoàng hậu, thì bệnh của Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị đã lan truyền ra, không ít thần tử đã biết. Do vậy, có thể nói rằng cái chết của bà sau đó không phải là nhanh chóng đột ngột, mà là đã có quá trình ngấm ngầm lâu dài.

Qua đời

Thành niên băng thệ

Năm Khang Hi thứ 17 (1678), vào ngày 26 tháng 2 (âm lịch), giờ Tỵ, Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị qua đời tại Khôn Ninh cung, chung niên 25 tuổi.

Ngày Hoàng hậu băng hà, Khang Hi Đế đang nghe chính sự tại Càn Thanh môn (乾清门), tin Hoàng hậu băng thệ bay đến, Chư vương cùng đại thần đều quỳ khóc tang. Khi nghe việc Hoàng hậu mất, Chiêu Thánh Thái hoàng thái hậu lập tức đến Càn Thanh môn khóc, nhưng Khang Hi Đế sợ Thánh tổ mẫu sẽ xúc động mà ngã bệnh, nên khuyên Thái hoàng thái hậu về cung trước. Khang Hi Đế từ khi Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị qua đời, được ghi nhận cực kỳ đau lòng. Ông bãi triều 5 ngày, sai Chư vương phi, Bối lặc phi, Công chúa và Quận chúa đến Bát kỳ Nhị phẩm mệnh phụ trở lên đều có mặt ở Khôn Ninh cung khóc tang. Tất cả đều theo cựu lệ của Nhân Hiếu Hoàng hậu.

Ngày 28 tháng 2, bày biện Lỗ bộ bên ngoài Càn Thanh môn. Giờ Thìn, di hài tử cung của bà được Khang Hi Đế đích thân đặt tại Vũ Anh điện (武英殿), Chư vương phi, Bối lặc phi, Công chúa và Quận chúa đến Bát kỳ Nhị phẩm mệnh phụ trở lên ở trong điện khóc tang, Chư vương, Bối lặc, Nội đại thần ở bên ngoài khóc tang. Ngày 29 tháng 2, Nhân Hiến Hoàng thái hậu đích thân đến trước tử cung mà khóc. Sự thương yêu từ cả Thái hoàng thái hậu lẫn Hoàng thái hậu cho thấy Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị sinh tiền rất được lòng 2 vị trưởng bối, thậm chí Nhân Hiếu Hoàng hậu còn chưa như thế. Từ đây thẳng đến ngày 25 tháng 3, Khang Hi Đế đều đích thân đến tế rượu, ở từ giờ Thìn đến tận giờ Dần, cứ ngồi như thế bên cạnh tử cung của Hoàng hậu mà ngây ngốc khoảng 7-8 canh giờ.

Sang ngày 25 tháng 3, Khang Hi Đế đích thân đưa tử cung đến thành Củng Hoa, táng cùng trong điện của Nhân Hiếu Hoàng hậu. Sau khi đến Củng Hoa, mãi đến ngày 29 tháng 3, Khang Hi Đế vẫn kiên trì khóc tang, dù lúc đó chiến sự Loạn tam phiên rất gay cấn.

Hiếu Chiêu Hoàng hậu

Ngày 2 tháng 3 (âm lịch) năm ấy, Khang Hi Đế ngự tang phục đến Thái Hòa môn, lấy Trang Thân vương Bác Quả Đạc làm Chính sứ, Tín Quận vương Ngạc Trát (鄂扎) làm Phó sứ, bưng sách bảo, tuy sách thụy hiệu cho Đại hành Hoàng hậu. Thụy hiệu được ban là Hiếu Chiêu Hoàng hậu (孝昭皇后).

Sách văn rằng:

Năm Khang Hi thứ 18 (1679), tháng 4, khiển quan viên cung điểm Hiếu Chiêu Hoàng hậu thần bài. Ngày Quý Dậu (9), làm lễ thăng phụ thần chủ của Hiếu Chiêu Hoàng hậu lên Phụng Tiên điện, phụng an bên phải thần chủ của Nhân Hiếu Hoàng hậu. Sau đó, lần lượt giỗ đầy 2 năm, rồi 3 năm diễn ra, Khang Hi Đế mệnh Hoàng thái tử Dận Nhưng, thống lĩnh chư Vương, Bối lặc cùng Mệnh phụ đến trí tế cho Hiếu Chiêu Hoàng hậu.

Năm Khang Hi thứ 20 (1681), ngày 17 tháng 2, Khang Hi Đế quyết định để Nhân Hiếu Hoàng hậu, cùng Hiếu Chiêu Hoàng hậu nhập táng vào địa cung của Cảnh lăng (景陵), thuộc Thanh Đông lăng. Cả hai tử cung của 2 vị Hoàng hậu trong ngày đó đều từ Củng Hoa thành đến nhập táng Cảnh lăng. Khang Hi Đế mệnh Thái tử dẫn đầu chư thần đến hướng tế. Ngày 19 tháng 2 cùng năm, chính thức khải thành. Ngày 7 tháng 3, đoàn hộ tang đến Cảnh lăng. Khang Hi Đế đặc mệnh Khang Thân vương Kiệt Thư đến trước tử cung của Nhân Hiếu Hoàng hậu, Trang Thân vương Bác Quả Đạc đến trước tử cung, đọc chí chúc tế. Lễ xong, đưa linh cữu hai vị Hoàng hậu đến Hưởng điện, hôm sau kết thúc buổi lễ an táng. Đồng thời, Khang Hi Đế còn trấn an người nhà hai vị Hoàng hậu, ban thực ban vật, lấy kỳ ân sủng.

Dâng thêm thụy hiệu

Năm Khang Hi thứ 61 (1722), tháng 12, Ung Chính Đế lên ngôi. Bàn nghị, dâng thụy hiệu tổng 12 chữ cho Nhân Hiếu Hoàng hậu, Hiếu Chiêu Hoàng hậu cùng Hiếu Ý Hoàng hậu. Toàn thụy là Hiếu Chiêu Tĩnh Thục Minh Huệ Chính Hòa Khâm Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu (孝昭靜淑明惠正和欽天順聖皇后).

Năm Ung Chính nguyên niên (1723), tháng 6, Tổng lý Đại thần các quan hội nghị việc phụng thờ Nhân Thọ Hoàng thái hậu, các đại thần cùng nghị phối thờ Tứ hậu (Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu cùng Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu - Nhân Thọ Hoàng thái hậu) vào Thánh Tổ miếu, đó là dựa vào lệ có từ thời Tống Thái Tông cùng Tống Chân Tông. Ung Chính Đế ra chỉ dụ có đoạn:「"Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu là nguyên phối, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu cùng Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu kế vị Trung cung, Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu sinh dục Trẫm cung, mẫu nghi thiên hạ. Án theo lễ của Tiên Nho mà làm, một Nguyên hậu, hai Kế hậu, một Bổn sinh, theo thứ tự song song. Nay mẫu hậu thăng phụ vị thứ, đương đầu tiên phụng Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu, sau là Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu, cuối cùng thăng phụ thần vị của Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu. Như thế thứ với cổ lễ phù hợp, mà Trẫm tâm cũng an rồi"」.

Cùng năm, ngày 4 tháng 9 (âm lịch), Ung Chính Đế đưa thần vị của Khang Hi Đế vào Thái Miếu, rồi làm lễ truy thêm chữ cho thụy hiệu của Hiếu Chiêu Hoàng hậu và ba vị Hoàng hậu khác, dâng thêm Đế thụy [Nhân] của Khang Hi Đế, toàn xưng là Hiếu Chiêu Tĩnh Thục Minh Huệ Chính Hòa Khâm Thiên Thuận Thánh Nhân Hoàng hậu (孝昭靜淑明惠正和欽天順聖仁皇后). Cũng ngày hôm đó, làm lễ đưa thần vị của bốn vị [Nhân Hoàng hậu] vào Thái Miếu, hưởng phối cùng Khang Hi Đế.

Sách thụy văn viết:

Đến các triều đại Càn Long, Gia Khánh liên tiếp thêm chữ vào thụy hiệu của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, đầy đủ là: Hiếu Chiêu Tĩnh Thục Minh Huệ Chánh Hòa An Dụ Đoan Mục Khâm Thiên Thuận Thánh Nhân Hoàng hậu (孝昭靜淑明惠正和安裕端穆欽天順聖仁皇后).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu Triết Giản hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲簡皇后, ? - ?) là chính thất của Minh An Tông Hoằng Quang Đế, Hoàng đế đầu tiên của triều Nam Minh. Bà kết hôn với Hoằng Quang
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**Hiếu Mục Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝穆成皇后, ; 1781 - 17 tháng 2 năm 1808), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế. Bà kết hôn với Đạo Quang
**Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞純皇后; ? - 20 tháng 3, 1518), còn gọi **Từ Thánh Thái hoàng thái hậu** (慈聖太皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.
**Hiếu Tĩnh Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靜毅皇后; 5 tháng 4, 1492 - 26 tháng 2, 1535), còn gọi là **Trang Túc Hoàng hậu** (莊肅皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Vũ Tông Chu
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Chiêu Thánh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭聖皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Hậu Hán Cao Tổ
**Thánh Nhân Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖仁皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Thanh Thánh Tổ đệ nhất nhiệm Thánh
**Chiêu Liệt Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭烈皇后) là thụy hiệu của một số nhân vật chưa từng làm hoàng hậu nhưng được hậu thế truy tôn trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc.
**Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝德顯皇后, ; 12 tháng 4 năm 1831 - 24 tháng 1 năm 1851), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế khi ông
**Chiêu Ý Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭懿皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Hậu Lương Hiến Tổ Chiêu Ý hoàng
**Nhân Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:仁皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ quân chủ ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tống Huy Tông thứ phi Hiển
**Chiêu Linh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭靈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ quân chủ ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tây Hán Thủy Tổ Chiêu
**Chiêu Ai Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭哀皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tây Hán Chiêu Ai hậu (chị gái
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
là Hoàng hậu thứ 124 trong lịch sử Nhật Bản, chính thất của Chiêu Hòa Thiên hoàng, tại vị Hoàng hậu từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989, thân
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 元皇后) là hoàng hậu của Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế Cao Diễn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nguyên hoàng hậu thuộc dòng dõi hoàng tộc Bắc Ngụy.
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế