Tích Thiện Hà hoàng hậu (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi Tích Thiện Hà Thái hậu (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân của Đường Ai Đế Lý Chúc.
Tiểu sử
Tích Thiện Hà thái hậu nguyên quán ở vùng Đông Thục, Tử Châu (梓州; nay là vùng Miên Dương, tỉnh Tứ Xuyên).
Sử sách không cho biết thêm gì nhiều về gia thế của bà, có lẽ do bà xuất thân trong một gia đình bình thường, không nổi bật. Vào thời Đường Hi Tông (873 - 888), khi Chiêu Tông còn giữ tước vị Thọ vương, Hà thị được tuyển vào làm thiếp của ông. Hà thị xinh đẹp đoan trang lại hiền thục, dịu dàng và khôn khéo nên rất được lòng Thọ vương.
Năm Văn Đức nguyên niên (888), Đường Hi Tông giá băng, Lý Kiệt trở thành Hoàng đế kế nhiệm, tức Đường Chiêu Tông. Thứ phi Hà thị được tấn phong làm Thục phi (淑妃) và một con gái duy nhất là Bình Nguyên công chúa.
Hoàng hậu nhà Đường
Chạy loạn sách lập
Năm Càn Ninh thứ 3 (896), Tiết độ sứ Phượng Tường là Lý Mậu Trinh tấn công kinh đô Trường An, Chiêu Tông phải đưa cả triều đình chạy đến Hoa châu.
Sang năm sau (897), tháng 11 (âm lịch), Đường Chiêu Tông hạ chiếu lập Hà Thục phi làm Hoàng hậu, trước đó ông đã ra chỉ lập con trai bà là Đức vương Lý Dụ làm Hoàng thái tử. Trong vòng hơn 100 năm kể từ sau khi Chiêu Đức hoàng hậu Vương thị của Đường Đức Tông Lý Quát qua đời, thì nhà Đường mới có một vị Hoàng hậu chính thức được sách lập. Sách văn năm đó, sách lập Hà Thục phi làm Hoàng hậu có viết:
Cung biến Canh Thân
Năm Quang Hóa nguyên niên (898), sau khi giảng hòa với Lý Mậu Trinh, Đường Chiêu Tông cùng Hà hậu và triều đình trở về Trường An. Năm thứ 3 (900), năm Canh Thân, triều đình xảy ra một biến cố lớn, làm thay đổi vận mệnh triều Đường.
Vào một ngày tháng 11, lúc Chiêu Tông say rượu đã hạ lệnh giết vài thái giám và cung nữ, khiến các hoạn quan lo lắng. Chỉ huy đội quân Thần Sách là Trung úy Lưu Quý Thuật (劉季述) quyết định tiến hành binh biến, nhân khi ở cửa cung đã bắt cóc Thái tử Lý Dụ. Ngày hôm sau, Lưu Quý Thuật đem Thái tử Lý Dụ vào triều, bắt buộc Chiêu Tông thoái vị, nhường ngôi cho Lý Dụ. Khi hà hoàng hậu nghe tin, nói:"Quân dung trưởng quan hộ giá Quang gia! Chớ khiến ngài hoảng sợ! Có việc thì Quân dung cùng thương lượng!". Cuối cùng thì Chiêu Tông phải miễn cưỡng chấp nhận thoái vị, Hà hoàng hậu sai người đến ngự tiền, lấy Ngọc tỷ trao tặng cho Lưu Quý Thuật. Thế là Thái tử Lý Dụ nối ngôi, tôn Chiêu Tông làm Thái thượng hoàng, Hà hậu làm Thái thượng hoàng hậu. Ngày hôm ấy, các hoạn quan đỡ Chiêu Tông cùng Hà hoàng hậu ngồi chung một liễn giá, đi theo hai người còn có các Tần ngự trong hậu cung, Công chúa và Thị tỳ, tất cả đều dời đến tại Thiếu Dương viện (少陽院) thuộc Đông Cung.
Lưu Quý Thuật cho đổi tên Thiếu Dương viện làm Vấn An cung (問安宮), cho người nung sắt nóng chảy khóa chặt cửa cung, mỗi ngày chỉ đưa cơm qua cửa sổ. Lúc ấy trời mùa đông rất lạnh, Công chúa cùng Tần ngự đi theo không đủ trang phục giữ ấm, từ bên ngoài có thể nghe thấy bọn họ khóc lóc thảm thiết trong cung. Vào tháng 12 cùng năm, các hoạn quan là Tôn Đức Chiêu (孫德昭), Đổng Ngạn Bật (董彥弼), Chu Thừa Hối (周承誨) hợp mưu với Tể tướng Thôi Dận chống lại và thanh trừng bọn Lưu Quý Thuật, đưa Chiêu Tông phục vị. Hà hoàng hậu trở lại ngôi vị Hoàng hậu, còn Lý Dụ phải giáng làm Đức vương.
Biến loạn Chu Toàn Trung
Sang đầu năm Thiên Phục (901), Đường Chiêu Tông phục vị, Tể tướng Thôi Dận xin Chiêu Tông chấp Thần Sách quân về cho mình, mà không phải vào tay các hoạn quan. Chiêu Tông cự tuyệt, đem Thần Sách quân giao lại cho hoạn quan Hàn Toàn Hối (韓全誨), khiến Thôi Dận và hoạn quan nảy sinh vết nứt. Về sau, các hoạn quan Hàn Toàn Hối và Trương Ngạn Hoằng (張彥弘) nảy sinh bất hòa với tể tướng Thôi Dận, và Thôi Dận đã cầu Tiết độ sứ Tuyên Vũ là Chu Toàn Trung tiến quân vào kinh tiêu diệt hoạn quan. Bọn hoạn quan sợ hãi, bắt Chiêu Tông và Hà hoàng hậu đưa đến Phượng Tường. Nhưng không được bao lâu, Chu Toàn Trung bao vây Phượng Tường.
Sang đầu năm sau (902), trước tình thế bị vây hãm, Lý Mậu Trinh ở Phượng Tường phải giao Đế-Hậu cho Chu Toàn Trung đưa về Trường An. Nhưng trước đó vào năm Thiên Phục thứ 3 (903), Lý Mậu Trinh đã ép Chiêu Tông kết thông gia với mình. Chiêu Tông phải gả con gái của Hà hoàng hậu là Bình Nguyên công chúa cho Lý Kế Khản (李继侃) - là con Lý Mậu Trinh, và cưới con gái của Tể tướng Tô Kiểm (蘇檢) - người mà Mậu Trinh tin tưởng cho Hoàng tử Cảnh vương Lý Bí (李秘). Hà hoàng hậu nghi ngại điều này, nhưng Chiêu Tông lại quyết định đồng ý đề xuất của Lý Mậu Trinh vì muốn nhanh chóng thoát khỏi ông ta. Sau đó, Chiêu Tông và Hà hoàng hậu được theo Chu Toàn Trung trở lại Trường An. Tuy nhiên về sau, Chiêu Tông đã buộc Lý Mậu Trinh trả lại công chúa. Tuy được về kinh, nhưng Chiêu Tông lại phải chịu sự kiểm soát của Chu Toàn Trung. Toàn Trung tàn sát các hoạn quan, giải tán Thần Sách quân âm mưu khống chế triều đình, khiến tể tướng Thôi Dận lo ngại và lên kế hoạch chống lại. Cuối cùng sự việc thất bại, Thôi Dận bị Chu Toàn Trung giết chết.
Năm Thiên Hữu nguyên niên (904), do lo sợ Lý Mậu Trinh có thể tấn công chiếm lại Trường An, Chu Toàn Trung quyết định đưa triều đình đến Lạc Dương để dễ kiểm soát. Lúc này, Hà hoàng hậu đang mang thai, Chiêu Tông lấy cớ đó để tìm cách làm chậm cuộc hành trình và tranh thủ sai người cầu cứu các Tiết độ sứ các nơi đến giúp mình chống lại Chu Toàn Trung, nhưng Vương Kiến ở Tây Xuyên, Lý Khắc Dụng ở Hà Đông và Dương Hành Mật ở Hoài Nam không ai nghe lệnh. Đường Chiêu Tông lại bị Chu Toàn Trung ép buộc phải nhanh chóng đi tới Lạc Dương.
Chu Toàn Trung lại lo ngại Đức vương Lý Dụ về sau sẽ chống đối mình nếu được lên ngôi, nên muốn diệt trừ, Chiêu Tông ban đầu không đồng ý. Nhưng có lẽ Hà hoàng hậu cũng biết rằng mình và con trai cũng khó thoát khỏi tay họ Chu nên chỉ biết cùng Chiêu Tông uống rượu và khóc. Khi Chu Toàn Trung biết Chiêu Tông bất mãn việc mình muốn giết Lý Dụ, cộng thêm việc nhiều Tiết độ sứ lại dâng biểu xin dời đô về lại Trường An, khôi phục quyền lực cho Thiên tử; nên tỏ ra rất lo sợ. Nhận thấy Đường Chiêu Tông khó bề kiểm soát, Chu Toàn Trung bèn lập kế hoạch ám sát Chiêu Tông, lập Ấu Đế để có thể sai khiến.
Ngày 11 tháng 8 (tức ngày 22 tháng 9 dương lịch) cùng năm, Chu Toàn Trung sai con nuôi là Tả long vũ thống quân Chu Hữu Cung (朱友恭) cùng Hữu long vũ thống quân Thị Thúc Tông (氏叔琮) dẫn quân vào cung. Đường Chiêu Tông khi ấy đang ở cùng Hà hoàng hậu tại Tiêu Lan điện (椒蘭殿), Tưởng Huyền Huy (蒋玄晖) phái Long Vũ nha quan Sử Thái (史太) giết Chiêu Tông, kèm theo đó cùng hai Cung tần Bùi Trinh Nhất (裴貞一) và Lý Tiệm Vinh (李漸榮), nhưng Hà hoàng hậu được Sử Thái và Tưởng Huyền Huy tha cho, vì mật lệnh của Chu Toàn Trung chỉ yêu cầu giết Chiêu Tông. Các tể tướng Liễu Xán (柳璨) và Độc Cô Tổn giả chỉ dụ của Hà hoàng hậu, tuyên bố rằng: "Hoàng đế bị cung nhân giết hại, Huy vương Tộ lên ngôi Hoàng đế" (Nguyên văn: 帝為宮人害,輝王祚宜升帝位。).
Cái chết
Ngày 15 tháng 8 (tức ngày 26 tháng 9 dương lịch), sau khi hoàn thành việc giết Chiêu Tông, Chu Toàn Trung tôn Huy vương Tộ lên ngôi, tức là Đường Ai Đế. Hà hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tuyên Mục Hoàng Hậu** (chữ Hán: 宣穆皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử Trung Quốc. ## Danh sách *Tây Tấn Tuyên Đế Tuyên Mục hoàng hậu (truy tôn, thời
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Chương Mục Hoàng hậu** (chữ Hán: 章穆皇后; 975 - 1007), kế thất của Tống Chân Tông Triệu Hằng, nhưng lại là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của ông. ## Tiểu sử Chương Mục hoàng
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Mục Hoàng Hoa** (chữ Hán: 穆黃花) là hoàng hậu thứ ba của Bắc Tề Hậu Chủ Cao Vĩ trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Mục Hoàng Hoa còn có tên khác Mục Xá
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Hiếu Mục Hoàng Hậu** (chữ Hán: 孝睦皇后 hoặc 孝穆皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách Hiếu Mục Hoàng Hậu
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后, ?-563), không rõ tên thật, thụy hiệu: **Tuyên Tĩnh hoàng hậu** (宣靜皇后), là hoàng hậu của Lương Tuyên Đế (梁宣帝) Tiêu Sát (萧詧) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Tuyên Ý Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:宣懿皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Đường Mục Tông Tuyên Ý hoàng hậu
**Văn Mục Hoàng Hậu** (_chữ Hán_: 文穆皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ quân chủ ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Lưu Tống Hiếu Vũ
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Mục Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝穆成皇后, ; 1781 - 17 tháng 2 năm 1808), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế. Bà kết hôn với Đạo Quang
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Hộc Luật hoàng hậu** (chữ Hán: 斛律皇后), nguyên phối và là hoàng hậu đầu tiên của Bắc Tề Hậu Chúa Cao Vĩ trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ tên thật lẫn
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Nhu Thuận hoàng hậu** (?-1775), họ Đào, là một hoàng hậu nhà Lê trung hưng. Bà là vợ vua Lê Thuần Tông, mẹ vua Lê Hiển Tông. Bà là Hoàng hậu cuối cùng của nhà
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Mục Vương Hậu** (_chữ Hán_:穆王后) là thụy hiệu của một số vị vương hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Đông Chu Cảnh Vương Mục vương