✨Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu

Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu

Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là Hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Triều Tiên và triều đại Đế quốc Đại Hàn.

Cuộc đời

Tiểu sử

Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu họ Doãn, bổn quán Hải Bình Doãn thị (海平尹氏), là con gái của Hải Phong Phủ viện quân Doãn Trạch Vinh (海豐府院君尹澤榮) và Khánh Hưng Phủ phu nhân Kỷ Khê Du thị (慶興府夫人兪氏). Bà được sinh ra ở quận Dương Bình, Kinh Kỳ đạo.

Năm 1904, tháng 11, Hoàng thái tử phi Mẫn thị (sau được truy phong Thuần Minh phi, Thuần Tông lên ngôi truy phong thụy hiệu Thuần Minh Hoàng hậu), vợ chính thức đầu tiên của Thái tử Lý Chước qua đời sau khoảng thời gian đau yếu. Sau khi mãn tang, triều đình Đại Hàn quyết định bàn luận người mới đảm nhiệm danh vị Thái tử phi.

Sang tháng 3 năm 1906, bắt đầu cử hành lựa chọn tân Thái tử phi, năm đó Doãn thị 12 tuổi tham tuyển.

Quang Vũ năm thứ 10 (1906), ngày 4 tháng 7, tiến hành sơ tuyển chọn lựa. Sang ngày 22 tháng 9, quyết định chọn con gái của Doãn Trạch Vinh, con gái của Thẩm Chung Xán cùng con gái của Thành Kiện Hạo trúng tuyển. Sang ngày 31 tháng 12, chính thức cử hành Tam giản trạch (三揀擇), và Doãn thị cuối cùng được chọn ra trở thành Hoàng thái tử phi.

Sang năm sau (1907), ngày 24 tháng 1, Thái tử Lý Chước cùng Doãn thị cử hành lễ đại hôn tại An Quốc động Biệt cung (安國洞別宮). Cùng ngày, còn tổ chức lễ phong Phi ở Khánh Vận cung và nhận triều bái của bá quan. Như vậy, Doãn thị chính thức trở thành vợ kế của Thái tử Đại Hàn, bà được gọi là Đông Cung Kế phi (東宮繼妃). Bà kế phi lúc này mới 14 tuổi, nhỏ hơn chồng đến tận 20 tuổi, thậm chí cha bà Doãn Trạch Vinh còn nhỏ hơn chồng bà 2 tuổi.

Thực tế, việc Doãn thị trở thành Kế phi theo nhiều tài liệu đương thời, đều là nguyên nhân chính trị. Cha bà Doãn Trạch Vinh đã ngầm cùng phe với Khánh Thiện cung Thuần Hiến Hoàng quý phi Nghiêm thị, do cụ nội của Doãn phi là Doãn Dung Thiện vốn là tâm phúc đại thần của Nghiêm phi. Theo tư liệu của Thống Giám phủ (統監府) của Nhật Bản đặt tại Đại Hàn còn minh xác chỉ ra: :Doãn Trạch Vinh là cháu Doãn Dung Thiện, người gian nịnh, giao tế xảo diệu, thiện giải nhân ý. Tổ phụ hắn kết giao Khánh Thiện cung (tức Nghiêm phi), trước tham dự Thăng phi vận động, sau lại tham dự Thăng hậu vận động, pha vận mật kế, đạt được Nghiêm phi tín nhiệm. Sau, con gái của hắn (chỉ Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu) được phong làm Hoàng hậu, thật thành với Nghiêm phi chủ trương, lấy thù này lao, thả ích thân mật này quan hệ. Hơn nữa, vào thời điểm đó có nguồn tin đại chúng cho rằng cha của kế phi là Doãn Trạch Vinh vốn mắc một khoản nợ rất lớn, việc ông tham vọng đưa con gái vào làm kế phi cũng chỉ vì muốn có quan hệ mật thiết với vương thất. Thậm chí sau khi trở thành Phủ viện quân, ông cũng không trả lại số nợ đang mắc và số tiền ông tốn để con gái trở thành phi, mà dùng địa vị Phủ viện quân của mình để tận hưởng quyền lực và xa xỉ, vì thế nên nợ chồng thêm nợ. Do vậy, ông bị mỉa mai gọi là "Trái vụ Vương" (Chúa nợ nần) và bị những người chủ nợ sỉ nhục, khinh miệt. Doãn Trạch Vinh về sau phải sống lưu vong và qua đời tại Trung Quốc để trốn nợ.

Đại Hàn Hoàng hậu

thumb|trái|Thuần Trinh Hiếu hoàng hậu năm 1930.

Năm 1907, tháng 7, Triều Tiên Cao Tông bị người Nhật bức thoái vị lui về làm Thái thượng hoàng, chồng bà lên nối ngôi trở thành Hoàng đế, niên hiệu Long Hi, đồng thời truy tặng nguyên phi Mẫn thị làm “Thuần Minh Hoàng hậu” (純明皇后), sách lập kế phi Doãn thị trở thành Hoàng hậu của Đại Hàn Đế quốc. Sở dĩ bà được danh xưng Hoàng hậu thay vì Vương phi như những chánh thất của các vua Triều Tiên trước hay Vương hậu như Minh Thành Hoàng hậu lúc sinh thời, là vì Thuần Tông và Cao Tông lúc này đã xưng Hoàng đế, các vị vua trước chỉ xưng Vương. Bà kế thừa vị trí Trung điện từ Vương hậu Mẫn thị (tức Minh Thành Hoàng hậu), nhưng lại là người phụ nữ đầu tiên (và duy nhất) ở Hàn Quốc hưởng lễ nghi của một Hoàng hậu.

Dù quan hệ giữa đế hậu khá tốt, nhưng Long Hi Đế tuổi đã cao lại hay đau ốm, khó có khả năng sinh sản, nên Doãn hậu vì vậy không có sinh ra người kế thừa hay hậu duệ nào. Vào tháng 9 cùng năm, Long Hi nguyên niên, Hoàng đế sau khi lên ngôi khoảng 2 tháng đã cùng Thượng hoàng quyết định lập con trai của Nghiêm phi là Anh Thân vương Lý Ngân làm Hoàng thái tử, theo tiền lệ vua Cảnh Tông lập Anh Tổ khi trước. Tháng 11 năm đó, Doãn hậu cùng Long Hi Đế dời từ Khánh Vận cung sang Xương Đức cung, trú ở Đại Tạo điện (大造殿). Lúc này Hoàng đế và Hoàng hậu cư trú tại Xương Đức cung, còn Thái thượng hoàng đơn độc trú tại Khánh Vận cung (sau đổi gọi Đức Thọ cung)

Trong thời gian làm Hoàng hậu, bà chủ trương nữ học, còn thiết trí nữ trợ giảng, hạ chỉ chấn hưng học vấn của phụ nữ. Ngoài ra, theo Phụ nhân theo hầu của bà là Kim Minh Cát (김명길; 金明吉) viết trong hồi ký "Nhạc Thiện trai chủ biên", bà còn học tiếng Nhật, tiếng Anh hay học đánh đàn piano mỗi tuần một lần ở trong cung. Sáng sớm bà có thói quen uống cà phê và ăn bánh ngọt do ảnh hưởng từ cha chồng là vua Cao Tông, tận đến khi bà mất, chiếc máy nướng bánh mì và bình pha cà phê mà bà thường dùng những năm sau này được bồi táng trong quan tài của bà. Bà có một cuộc sống buồn thảm chán chường, do chồng mình không chuyên chuyện phòng the, nên chỉ có thể lấy việc học và giáo dục để tìm thú vui qua ngày. Tương truyền hơn 20 năm ở trong cung, bà chưa bao giờ bước ra khỏi cung điện nửa bước, cùng lắm là tản bộ hoa viên mà thôi. Chính thê của Thái tử Lý Ngân là Lý Phương Tử mô tả cuộc sống của bà không khác gì tù nhân.

Trái ngược với mẹ chồng mình là Minh Thành Hoàng hậu Mẫn thị và Thuần Hiến Hoàng quý phi Nghiêm thị, những tín đồ sùng bái Shaman giáo (Vu tục) và thường tổ chức các lễ cúng Vu giáo trong cung, ngài Thuần Trinh lại sùng bái Phật giáo và hạn chế Vu giáo trong cung. Vì lý do này, bà rất được đánh giá cao về đạo đức và phẩm hạnh của mình.

Năm 1910, ngày 22 tháng 8, Nhật Bản bắt ép Đại Hàn kí kết Hiệp ước Nhật–Hàn (Nhật - Hàn hợp tịnh; 日韓合併), chính thức đem bán đảo Triều Tiên trở thành thuộc địa của Nhật Bản, Đại Hàn Đế quốc chính thức diệt vong. Nghe nói, khi Long Hi Đế thương thảo chiếu thoái vị cùng Lý Hoàn Dụng, Doãn Đức Vinh (chú của Doãn hậu), Doãn hoàng hậu núp sau bình phong sau đó chạy ra, mạnh mẽ đem ngọc tỷ giấu đi và cất dưới váy mình, sau thúc phụ Đức Vinh của bà phải dùng vũ lực lấy lại. Tuy bản thân anh em Doãn Trạch Vinh và Doãn Đức Vinh đều là những kẻ tay sai thân Nhật, nhưng ngược lại, Doãn hậu cùng anh trai Doãn Hoằng Tiếp (尹弘燮) lại là những người một lòng yêu nước. Chính Doãn hậu là người cung cấp tiền tài trợ cho anh mình, qua đó chuyển đến cho Thân Dực Hy (申翼熙), mục đích giúp ông thành lập Chính phủ lâm thời Đại Hàn Dân Quốc và tổ chức Phong trào 1 tháng 3.

Sau khi Đại Hàn diệt vong, hoàng thất Đại Hàn bị sáp nhập vào hoàng thất Nhật Bản, gọi là Lý Vương gia (李王家), Thái thượng hoàng đổi thành Đức Thọ cung Lý thái vương (德壽宮李太王), chồng bà đổi thành Xương Đức cung Lý vương (昌德宮李王), do đó bà được cải gọi thành Xương Đức cung Lý Vương phi (李王妃) hoặc gọi tắt là Doãn phi (尹妃).

Cuối đời

thumb|Ảnh chụp gia đình Đức Thọ cung Lý Thái vương năm 1918, Triều Tiên Cao Tông cùng người nhà chụp ảnh ở [[Đức Thọ cung, Đại Tạo điện, từ trái qua phải: Ý Mẫn Thái tử (Lý vương Thế tử), Thuần Tông (Lý Vương), Cao Tông (Lý Thái vương), Doãn hậu (Lý Vương phi) cùng Đức Huệ Ông chúa (Phúc Ninh đường A Chỉ thị).]]

Ngày 24 tháng 4 năm 1926, Thuần Tông qua đời không con thừa tự, thọ 52 tuổi. Doãn phi đau lòng túc trực bên linh cữu, không ăn không uống nhiều ngày. Lý vương Thế tử Lý Ngân kế vị thành Lý vương đời kế tiếp, Doãn phi trở thành Lý Vương Đại phi (李王大妃), giản xưng Đại phi. Sau đó, bà không chọn tiếp tục cư trú tại Đại Tạo điện (大造殿) mà chuyển đến Nhạc Thiện trai (樂善齋) bên trong Xương Đức cung, nhường Đại Tạo điện lại cho vợ chồng Lý Ngân. Bà trở thành Phật tử những năm cuối cuộc đời, pháp hiệu là Đại Trí Nguyệt (大智月), mỗi ngày đều đặn tụng kinh niệm Phật.

Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng, Bán đảo Triều Tiên được khôi phục bởi chính quyền Lý Thừa Vãn, đối với cựu tộc họ Lý thập phần lãnh đạm, bà tiếp tục cuộc sống không mấy thoải mái ở Nhạc Thiện trai. Năm 1950, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Quân đội Nhân dân Triều Tiên đánh chiếm Seoul, tiếp cận Nhạc Thiện trai và Doãn Đại phi bị bắt lôi ra. Tương truyền, khi đứng trước lực lượng quân dân, Doãn Đại phi khi đó 57 tuổi đã quát tiếng nói: “Nơi này là quốc mẫu cư trú địa phương!”. Từ đó về sau, câu chuyện này trở thành giai thoại rất nổi tiếng ở Hàn Quốc. Khoảng 5 ngày sau, bà được phóng thích, nhưng Nhạc Thiện trai đã bị cướp bóc không còn thứ gì. Không còn nơi nào, bà được vợ kế của Hưng Thân vương là Hưng Thân vương kế phi Ly Châu Lý thị mời đến Vân Hiện cung (云峴宫), là tư gia của Hưng Tuyên Đại Viện Quân. Liên hiệp quốc quân đánh vào Seoul, bà lại theo người Mỹ đến Busan tị nạn. Đến năm 1952, bà lại về Nhạc Thiện trai.

Nhưng vào năm 1953, tổng thống Lý Thừa Vãn không muốn vương thất họ Lý sẽ chia sẻ quyền lực với mình, bèn ban bố Cựu vương thất tài sản xử trí pháp (舊王室財產處置法), Hàn Quốc chính phủ vì thế đem Xương Đức cung lẫn Nhạc Thiện trai quốc hữu hóa, xung vào quốc khố, lại ra sức chèn ép cựu vương thất, không công nhận thân phận gia tộc Toàn Châu Lý thị và cấm họ quay về cố quốc. Bản thân Doãn Đại phi lần nữa lại bị đuổi đi, bà được người quen đưa về trú ở Nhân Tu điện (仁修齋) trong Trinh Lăng (貞陵), là lăng của Thần Đức Vương hậu (Kế thất của Triều Tiên Thái Tổ), thuộc vùng ngoại ô của Seoul. nhỏ|Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu những năm cuối đời. Năm 1960, ngày 4 tháng 5, sau khi Lý Thừa Vãn bị hạ bệ và lưu vong ở Hawaii, Doãn Đại phi lần nữa được mời về Seoul và vào ở Nhạc Thiện trai. Thành viên Đảng Dân chủ của Hàn Quốc là Ngô Tại Cảnh (오재경) phát hiện quan viên chính quyền thu dụng lượng tài sản khổng lồ của cựu vương thất, rồi ngấm ngầm đem bán đổi ra tiền mặt để tiêu xài, sự việc khiến ông ghê tởm và quyết định đanh thép sửa chữa. Nhưng công việc đang tiến hành, thì văn phòng của ông bị hỏa hoạn, tài liệu vật chứng gần như bị hủy, ông biết có quá nhiều người muốn ém nhẹm nên đã từ chức.

Tài sản họ Lý bị quan chức thu mua chiếm dụng, nên Doãn Đại phi tuy là trưởng bối còn sống cao nhất của dòng tộc, cũng không thể làm gì khác. Ấn theo quy định đãi ngộ, mỗi tháng quốc ngân chi ra 500.000 WON để sinh hoạt. Về sau, Phác Chính Hi là một người có thiện cảm với cựu vương triều lên cầm quyền, cuộc sống của bà mới khá khẩm hơn một chút, bà được đưa về ở lại trong Nhạc Thiện trai thuộc Xương Đức cung và ở cùng em dâu Lý Phương Tử (trở về từ Nhật năm 1963), em chồng Đức Huệ Ông chúa (trở về từ Nhật năm 1962). Do không có con nên cả bà lẫn vua Thuần Tông quá cố đều rất yêu thương người em trai Anh Thân vương Lý Ngân và mong ông sớm có thể quay về Hàn Quốc, tuy nhiên cho đến ngày Lý Ngân trở về bà cũng không thể gặp mặt ông do lúc này ông đã rơi vào hôn mê.

Ngày 3 tháng 2, năm 1966, Doãn đại phi qua đời tại Tích Phúc hiên, ở trong Nhạc Thiện trai, Xương Đức cung do một cơn đau tim, thọ 72 tuổi. Bà được an táng cạnh Thuần Tông hoàng đế cùng nguyên phối Thuần Minh Hiếu Hoàng hậu tại Dụ Lăng (裕陵). Bà được Toàn Châu Lý thị đại đồng tông ước viện (全州李氏大同宗約院) dâng thụy hiệu đầy đủ là Hiến Nghi Từ Nhân Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu (獻儀慈仁純貞孝皇后), gọi ngắn là Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu (純貞孝皇后).

Danh hiệu

;Đại Hàn đế quốc

  • Đại Hàn đế quốc Hoàng thái tử phi (大韓帝国皇太子妃; 1906 - 20 tháng 7, năm 1907)
  • Đại Hàn đế quốc Hoàng hậu (大韓帝国皇后; 20 tháng 7, năm 1907 - 24 tháng 4, năm 1926)

; Nhật Bản

  • Xương Đức cung Lý vương phi (昌德宮李王妃; 22 tháng 8, năm 1910 - 24 tháng 4, năm 1926)
  • Xương Đức cung Lý vương Đại phi (昌德宮李王大妃; 24 tháng 4, năm 1926 - 3 tháng 5, năm 1947)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Thuần Minh Hiếu Hoàng hậu** (Hangul: 순명효황후, Hanja: 純明孝皇后) (20/11/1872 – 5/11/1907) là nguyên phối của vua Triều Tiên Thuần Tông Lý Chước, vị Hoàng đế cuối cùng của Nhà Triều Tiên lẫn Đại Hàn
**Hiếu Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Đông Tấn Phế Đế Hiếu
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞純皇后; ? - 20 tháng 3, 1518), còn gọi **Từ Thánh Thái hoàng thái hậu** (慈聖太皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Thánh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách ### Việt Nam #Tiền Lê
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Cung Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:恭皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tây Hán Cung Hoàng Cung hoàng hậu (truy
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Cao Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:高皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu, hoặc chỉ các vị hoàng hậu họ Cao trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông.
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Túc Minh Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 肅明順聖皇后, ? - 693), là Hoàng hậu của Đường Duệ Tông Lý Đán, một vị Hoàng đế nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
là Hoàng hậu thứ 124 trong lịch sử Nhật Bản, chính thất của Chiêu Hòa Thiên hoàng, tại vị Hoàng hậu từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989, thân
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Thánh Hiến Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖獻皇后 hoặc 聖憲皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách Thánh Hiến Hoàng Hậu (聖獻皇后)
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 元皇后) là hoàng hậu của Bắc Tề Hiếu Chiêu Đế Cao Diễn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nguyên hoàng hậu thuộc dòng dõi hoàng tộc Bắc Ngụy.
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Nhu Thuận hoàng hậu** (?-1775), họ Đào, là một hoàng hậu nhà Lê trung hưng. Bà là vợ vua Lê Thuần Tông, mẹ vua Lê Hiển Tông. Bà là Hoàng hậu cuối cùng của nhà
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Chiêu Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ quân chủ ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Nam Tề Cao Đế Chiêu hoàng
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Uyên Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝淵景皇后; 1427 - 15 tháng 1, 1506), nhưng được Minh sử ghi thành **Cảnh Đế Uông Phế hậu** (景帝汪廢后), là Hoàng hậu đầu tiên Minh Đại Tông Chu
**Hiển Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:顯皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Hậu Đường Minh Tông Vũ Hòa Hiển hoàng