✨Vương hoàng hậu (Hán Bình Đế)

Vương hoàng hậu (Hán Bình Đế)

Hiếu Bình Vương Hoàng hậu (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là Hiếu Bình Vương hậu (孝平王后) hoặc Hoàng Hoàng Thất chúa (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế Lưu Diễn, vị Hoàng đế thứ 14 của Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là vị Hoàng hậu cuối cùng của thời kì Tây Hán trong lịch sử.

Vương Hoàng hậu được các sử gia xem như một nhân vật bi kịch, là nạn nhân của hoàn cảnh. Hoàng hậu đã nỗ lực trung thành với triều đại nhà Hán khi cha bà là Vương Mãng cướp ngôi, nhưng lòng trung thành cuối cùng đã buộc bà phải chết vào cuối triều đại của cha mình.

Thân thế

Hiếu Bình Vương Hoàng hậu, không rõ tên gì, sinh năm Kiến Bình thứ 3 (4 TCN) thời Hán Ai Đế, xuất thân từ dòng họ Vương ở huyện Đại Danh, Ngụy quận (Đại Danh, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), hậu duệ của Điền An thời Hán Sở, là người trong tộc của Hiếu Nguyên Hoàng hậu Vương Chính Quân, là Hoàng hậu của Hán Nguyên Đế.

Tằng tổ phụ Vương Cấm (王禁), là cha của Hiếu Nguyên hậu, tổ phụ là Vương Mạn (王曼), anh trai thứ của Hiếu Nguyên hậu, truy tặng Tân Đô Ai hầu (新都哀侯). Cha bà là Vương Mãng, cháu trai của Hiếu Nguyên hậu; mẹ bà là Vương thị (王氏), con gái của Y Xuân hầu Vương Hàm (王咸). Vào thời điểm sinh ra bà, cha bà đã từ chức khỏi các vị trí quyền lực do sự trỗi dậy của các thế lực ngoại ngoại thích mới từ họ Phó và họ Đinh. Tuy nhiên, năm 1 TCN, sau cái chết của Hán Ai Đế Lưu Hân, cô của Vương Mãng là Hiếu Nguyên Thái hậu Vương Chính Quân trở lại nắm quyền. Thế lực họ Vương nhanh chóng trỗi dậy chiếm lại quyền lực từ các họ khác. Vương Mãng được Thái hậu phong làm nhiếp chính cho Hán Bình Đế nhỏ tuổi.

Hoàng hậu nhà Hán

Khi Vương Mãng đã trở thành nhiếp chính, Hán Bình Đế hoàn toàn không có quyền hành. Vương Mãng thao túng việc chính sự nhà Hán, tìm cách lấy lòng người để cướp ngôi nhà Hán. Dần dần, Vương Mãng dùng phe cánh của mình tác động để Vương Thái hậu và Hán Bình Đế phong làm An Hán công (安汉公). Đối với quyền thế ngày một tham lam, mãi không đủ, Vương Mãng học theo cách của Hoắc Quang, tìm cách đưa con gái Vương thị vào cung làm Hoàng hậu của Hán Bình Đế.

Ngay lập tức, Vương Mãng ra chỉ tuyên bố, phù hợp với phong tục cổ xưa, rằng Hoàng đế sẽ có một Hoàng hậu và 11 phi tần, và bắt đầu một quá trình lựa chọn phụ nữ trẻ tầng lớp quý tộc bằng cách xác định đủ điều kiện đặt ra làm phi tần. Vương Mãng kiến nghị lên Thái hoàng Thái hậu nên sớm chọn Hoàng hậu cho Bình Đế vì mấy đời trước đều không có con nối nghiệp. Sau vài động thái vận động những người tâm phúc đề nghị, cuối cùng Vương Thái hậu chọn con gái Vương Mãng trong số những cô gái dự tuyển làm Hoàng hậu của Bình Đế.

Năm Nguyên Thủy thứ 3 (năm 3 công nguyên), mùa xuân, Vương Mãng tiến hành gả Vương thị cho Hán Bình Đế. Thái hoàng Thái hậu Vương Chính Quân sai Trường Lạc Thiếu phủ Hạ Hầu Phiên (夏侯藩), Tông chính Lưu Hoành (刘宏), Thượng thư lệnh Bình Yến (平晏) cùng đến Vương phủ làm lễ Nạp thái. Các đại thần hồi tấu, khen ngợi Vương thị phẩm đức cùng dung mạo, còn phái Thái sư Khổng Quang (孔光), Từ đồ Mã Cung (马宫), Đại tư không Chân Phong (甄丰), Tả tướng quân Tôn Kiến (孙建), Chấp kim ngô Doãn Thưởng (尹赏), Hành Thái Thường sự Đại trung đại phu Lưu Hâm (刘歆),... bốn mươi chín người ban da quan tố thường, hành lễ xem bói, tế miếu cáo tổ, các đại thần tấu bói toán kết quả là cát lợi. Vì thế đợi ngày tốt làm đại lễ thành hôn giữa Vương thị và Hán Bình Đế.

Năm Nguyên Thủy thứ 4 (năm 4 công nguyên), tháng 2, phái Đại tư đồ Mã Cung, Đại tư không Chân Phong, Tả tướng quân Tôn Kiến, Hữu tướng quân Chân Hàm (甄邯), Đại trung đại phu Lưu Hâm phụng thừa Dư giá, đến Vương Mãng phủ đệ nghênh thú Vương thị nhập cung. Mã Cung cùng Lưu Hâm trình lên "Hoàng hậu ấn tỉ" được đặt trên dải lụa, chọn ngày lành tháng tốt từ Diên Thọ môn (延寿门) ở Thượng Lâm uyển, đi đến trước Vị Ương cung. Tháng 4, Vương thị chính thức được sách lập thành Hoàng hậu, năm đó bà chỉ vừa 7 tuổi. Quần thần vào chỗ hành lễ, đại xá thiên hạ.

Sau 3 tháng đại lễ sách lập, Vương Hoàng hậu tiếp nhận kiến bái Tông miếu xã tắc. Theo lệ, Vương Mãng trở thành Tể hành (宰衡), địa vị cao hơn cả Chư hầu Vương; mẹ Vương thị được phong Công Hiển quân (功顯君); 2 anh em trai của Hoàng hậu là Vương An (王安) được phong Bao Tân hầu (褒新侯); Vương Lâm (王臨) làm Thường Đô hầu (賞都侯).

Theo thông lệ, cha của Hoàng hậu hưởng đất phong 100 dặm và thưởng rất nhiều tiền vàng. Nhưng Vương Mãng từ chối mở rộng phong ấp và trích tiền thưởng cho 10 cô gái cùng dự tuyển Hoàng hậu với con mình. Các quan viên nhất loạt dâng thư cho rằng như vậy thì lễ sính cho Hoàng hậu không hơn gì các phi tử, đề nghị tăng thưởng thêm tiền vàng cho ông. Vương Mãng vẫn không nhận hết mà mang chu cấp cho những người nghèo trong 9 tộc họ Vương. Nhiều người rất cảm động việc làm này của Vương Mãng.

Tận trung Hán triều

Năm Nguyên Thủy năm thứ 5, ngày 16 tháng 12 (tức ngày 4 tháng 2 năm 6), Vương Mãng dùng rượu độc giết chết Hán Bình Đế. Hoàng đế băng hà khi mới 14 tuổi, sau 6 năm ở ngôi, không có con nối. Vương Mãng chọn trong số các hậu duệ của Hán Tuyên Đế, lập cháu 5 đời của Tuyên Đế là Lưu Anh mới 2 tuổi lên ngôi, tức là Nhũ Tử Anh. Vương Hoàng hậu trở thành Hoàng thái hậu khi mới 9 tuổi.

Năm Cư Nhiếp thứ 3 (năm 8 công nguyên), tháng 11, Vương Mãng cải nguyên Sơ Nguyên, tháng 12 lại cải thành Thủy Kiến Quốc. Sang ngày 1 tháng 1 năm sau, Vương Mãng phế bỏ Nhũ Tử Anh lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Tân, Vương Hoàng hậu trong một thời gian ngắn trở thành Hiếu Bình Hoàng hậu (孝平皇后). Sau đó không lâu, Nhũ Tử Anh được cải phong Định An công, Vương Thái hậu được phong là Định An Thái hậu (定安太后).

Theo sử thư ghi lại, Vương thị tính khí kiên cường và không bằng lòng với hành động cướp ngôi của cha mình, vẫn giữ lòng trung thành với nhà Hán. Bà thường cáo bệnh và từ chối tham dự yến tiệc cùng Phụ hoàng. Vương Mãng đã thay đổi sắc phong hiệu của bà thành Hoàng Hoàng Thất chúa (黃皇室主), chấm dứt mối quan hệ chính thức của bà với nhà Hán. Vương Mãng dự định cải giá con gái mình với con trai của một trong những đại thần trong triều là Tôn Kiến (孫建), ông chỉ thị cho con trai Tôn Kiến ăn mặc bảnh bao và đi cùng các thái y đến thăm Hoàng Hoàng Thất chủ. Vương thị tức giận và sẽ không tiếp ai nữa. Cha bà cũng muốn gả bà cho Chân Tầm (甄尋), một công tử ở Trường An và là con trai Chân Phong (甄豐), bạn thân Vương Mãng, được xem là xứng đáng gia thế. Nhưng sau khi nghe lời tiên đoán họ Chân sẽ cướp ngôi của mình, Vương Mãng hạ lệnh bắt giữ Chân Tầm, Chân Phong tự sát. Năm 11, Chân Tầm bị lưu đày đến Tam Ngụy (三危, nay là Tửu Tuyền, Cam Túc). Sau đó, Vương thị cũng bị ép cải giá nhiều lần nhưng đều từ chối.

Năm 23, nhà Tân suy tàn, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Đến tháng 9, khi quân khởi nghĩa tiến vào Trường An thì nhân dân trong thành cũng vùng dậy chống triều đình. Họ nổi loạn đốt cháy cung điện. Lửa nhanh chóng lan tới Vị Ương cung, nơi Vương thất chúa đang ở. Bà cho rằng không còn mặt mũi nào gặp lại nhà Hán nên đã nhảy vào lửa tự vẫn, bà thọ khoảng 27 tuổi. Việc mai tang của bà không được diễn ra, nên không có thụy hiệu, cách gọi "Hiếu Bình Hoàng hậu" của bà chỉ gọi thuận theo thụy hiệu của Hán Bình Đế.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Hiếu Mục Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝睦王皇后; ? – 21), là người vợ và cũng là Hoàng hậu đầu tiên của Vương Mãng, người lập ra triều đại nhà Tân. ## Tiểu sử Hiếu
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Thương Đế Lục hoàng hậu** (chữ Hán: 殤帝陸皇后), hoặc **Đường Long hậu** (唐隆后), là Hoàng hậu tại vị trong thời gian rất ngắn (chỉ 17 ngày) trong lịch sử Trung Quốc. Phu quân là Đường
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Phó hoàng hậu** (chữ Hán: 傅皇后; ? - 1 TCN) là Hoàng hậu của Hán Ai Đế Lưu Hân, quân chủ thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Đại vương hậu** () là nguyên phối thê tử của Hán Văn Đế Lưu Hằng khi ông còn là **Đại vương** (代王) nước Đại (196 TCN - 180 TCN), nước chư hầu của nhà Hán.
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞純皇后; ? - 20 tháng 3, 1518), còn gọi **Từ Thánh Thái hoàng thái hậu** (慈聖太皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.