✨Thượng Quan hoàng hậu (Hán Chiêu Đế)

Thượng Quan hoàng hậu (Hán Chiêu Đế)

Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi Thượng Quan Thái hậu (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Trong lịch sử, Thượng Quan hoàng hậu nổi tiếng vì đạt được ngôi vị Hoàng hậu khi còn rất trẻ, chỉ vừa lên 6 tuổi. Lên ngôi Hoàng hậu còn trẻ tuổi, đến khi nhận cương vị Hoàng thái hậu thì Thượng Quan hoàng hậu chỉ mới đến 15 tuổi. Trong suốt cuộc đời của mình, bà chứng kiến việc cả dòng họ bên nội và bên ngoại của mình bị tàn sát bởi những việc mưu lập chính trị. Bà thường được nhắc đến như là Bà hoàng trẻ tuổi nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Xuất thân

Hiếu Chiêu hoàng hậu Thượng Quan thị, người Lũng Tây (nay là Thiên Thủy, Cam Túc). Tổ phụ của bà là Tả Tướng quân An Dương hầu Thượng Quan Kiệt (上官桀). Phụ thân Thượng Quan An (上官安), mẹ là Kính phu nhân Hoắc thị (霍氏), con gái của Đại tư mã Đại tướng quân Hoắc Quang.

Dưới thời Hán Vũ Đế, Thượng Quan Kiệt từng cùng Lý Quảng Lợi lập quân công, sau thăng lên chức Thiếu phủ (少府) rồi là Tả Tướng quân (左將軍), trở thành một trong những danh thần đáng kể thời Hán Vũ Đế. Sau khi Vũ Đế qua đời, Thượng Quang Kiệt cùng Hoắc Quang đều trở thành nhiếp chính cho Hán Chiêu Đế. Nhằm tạo thêm thế lực liên minh mạnh mẽ, Thượng Quan Kiệt kết thông gia với Hoắc Quang, do đó Hoắc Quang đem con gái trưởng là Hoắc thị gả cho con trai Thượng Quan Kiệt là Thượng Quan An.

Do vậy, Thượng Quan thị được sinh ra là cầu nối giữa hai gia tộc này, trở thành cháu nội Thượng Quan Kiệt đồng thời là cháu ngoại của Hoắc Quang.

Nhập cung Hán

Lập làm Hoàng hậu

Khi Hán Vũ đế hấp hối (87 TCN), ông đã giao cho Thượng Quan Kiệt và Hoắc Quang cùng làm phụ chính cho Thái tử nối ngôi là Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, khi ấy mới 8 tuổi. Bấy giờ, Chiêu Đế còn quá nhỏ, các đại thần đồng ý tôn Ngạc Ấp công chúa, chị gái của Chiêu Đế, làm người phụ giúp và chăm sóc Chiêu Đế trong cung, giúp Chiêu Đế quyết định chính sự, đồng thời được tôn làm Trưởng công chúa.

Năm Thủy Nguyên thứ 4 (83 TCN), cha bà là Thượng Quan An muốn dựa vào thế lực của Hoắc Quang để đưa bà vào cung làm vợ Hán Chiêu Đế, Thượng Quang An cũng liên kết Hoắc Quang dâng tấu, nhưng tấu này không được duyệt. Cha bà sau đó lại nghe tin Trưởng công chúa để con gái Chu Dương thị nuôi trong cung, đợi thành hôn với Chiêu Đế, nên Thượng Quang An cố gắng không từ bỏ ý định đưa con gái mình làm Hoàng hậu. Gặp có người họ Đinh là tâm phúc của Trưởng công chúa, Thượng Quan An nói rằng:「"Nghe nói Trưởng công chúa có tính toán tuyển lập Hoàng hậu. Ta có một cô con gái, dung mạo đoan chính thanh nhã, được Trưởng công chúa yêu mến. Việc này thành hay không thành, đều nhờ vào các hạ"」. Người họ Đinh đó bẩm lên Trưởng công chúa, quả nhiên sau đó Thượng Quan thị có chỉ nhập cung trở thành Tiệp dư. Sang tháng sau, được lập làm Hoàng hậu. Năm đó, bà mới 6 tuổi và Hán Chiêu Đế cũng mới 12 tuổi, đây là Hoàng hậu nhỏ tuổi nhất trong toàn bộ lịch sử Trung Quốc. Cha bà Thượng Quan An do là quốc trượng, được thụ phong Tang Nhạc hầu (桑樂侯), phong thực ấp lên 1.500 hộ, thăng làm Xa Kỵ tướng quân (車騎將軍), càng ngày càng ngang ngược kiêu ngạo.

Năm Nguyên Phụng nguyên niên 80 TCN, Thượng Quan An và Thượng Quan Kiệt có tư thù với Hoắc Quang nên lập mưu tạo phản, nhưng bị thất bại, sử gọi đó là Chính biến Nguyên Phụng. Nguyên là sau khi lập được Thượng Quan thị làm Hoàng hậu, Thượng Quan An muốn trả công cho họ Đinh, xin Hoắc Quang phong tước Hầu cho họ Đinh nhưng bị cự tuyệt. Việc này khiến họ Thượng Quan mất mặt, hơn nữa họ Đinh kia là tình nhân của Trưởng công chúa, cũng khiến Trưởng công chúa sinh oán hận Hoắc Quang, vì vậy họ mưu lật đổ Hán Chiêu Đế, lập người anh của Hán Chiêu Đế là Yên vương Lưu Đán lên ngôi. Hán Chiêu Đế lúc này đã trưởng thành, cùng Hoắc Quang âm thầm đề phòng nhà Thượng Quan và chuẩn bị lực lượng phản kháng. Sự việc bị phát giác, Trưởng công chúa và Lưu Đán bị Hán Chiêu Đế ép tự sát, cả nhà Thượng Quan bị giết cả họ.

Về phần Thượng Quan thị, do vẫn còn nhỏ lại là cháu ngoại Hoắc Quang nên vẫn vô sự và tiếp tục được làm Hoàng hậu. Lúc này tuy nhà nội đã bị tận diệt, nhưng tính cách ổn trọng của Thượng Quan hoàng hậu khiến Hoắc Quang yêu thích. Hoắc Quang cũng từ đó muốn cháu ngoại sinh ra Hoàng tử, với quyền hành lớn của mình, ông ngầm lệnh các Ngự y tấu thỉnh, xin Hán Chiêu Đế xa rời nữ sắc, nên trừ Thượng Quan hoàng hậu thì không có cung nhân nào khác gần gũi Hoàng đế, Thượng Quan hoàng hậu cũng từ đó chuyên sủng. Nhưng dẫu vậy, Thượng Quan hoàng hậu vẫn không hề có con.

Phế truất Lưu Hạ

Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), ngày 17 tháng 4, Hán Chiêu Đế băng hà ở Vị Ương cung, lúc đó chỉ mới 20 tuổi. Bời vì Hán Chiêu Đế qua đời mà không có con, Hoắc Quang đề nghị chọn người trong tông thất vào cung làm hậu tự cho Chiêu Đế, kế thừa Đế vị. Và Hoắc Quang xin lập Xương Ấp vương Lưu Hạ, con trai của Xương Ấp Ai vương Lưu Bác (劉髆) và là cháu nội của Hán Vũ Đế cùng Lý phu nhân lên làm Hoàng thái tử, sau đó tiến hành kế vị ngôi Hoàng đế của Hán Chiêu Đế. Tháng 6, Lưu Hạ nhận Hoàng đế tỉ thụ, tấn tôn Hoàng hậu Thượng Quan thị làm Hoàng thái hậu khi mới 15 tuổi, là Hoàng thái hậu trẻ tuổi nhất trong lịch sử.

Thế nhưng, Lưu Hạ lại là người không đứng đắn. Khi dùng thân phận Hoàng thái tử tùy hành các quan viên đến Trường An tế bái Hán Chiêu Đế, Lưu Hạ lén mua gà, mua vịt ăn và thăm thú các trò chơi bời khác, đặc biệt là ông cùng cung nhân của Hán Chiêu Đế thông dâm, bãi hại đức độ. Sau 27 ngày giữ Hoàng đế tỉ thụ, mặc cho Hoắc Quang cùng quần thần khuyên can, Lưu Hạ vẫn không hề bỏ đi thói xấu, mà ngày càng đổ đốn hơn. Không thể để Đế vị cho một người như vậy, Hoắc Quan đến Vị Ương cung xin Thượng Quan Thái hậu phế truất Lưu Hạ. Hoàng thái hậu chấp nhận. Khi đó, Hoàng thái hậu mặc y phục hoa lệ đoan nhã, ngồi giữa mành trướng, có bày biện võ sĩ mang binh khí, triệu Lưu Hạ đến trước mặt quỳ xuống. Thượng thư lệnh tuyên đọc sớ tấu của Hoắc Quang, hạch tội trạng của Lưu Hạ, Hoàng thái hậu theo đó ban chỉ phế truất Lưu Hạ.

Tháng 7 năm đó, Hoắc Quang dâng sớ tấu xin Thượng Quan Thái hậu lập Đích hoàng tằng tôn (cháu chắt trưởng) của Hán Vũ Đế, cháu nội Lệ Thái tử Lưu Cứ là Lưu Bệnh Dĩ lên kế vị. Hoàng thái hậu có vẻ đồng ý lời tấu của Hoắc Quang, bèn dùng Tông chính phái sứ giả đón Tằng tôn nhập cung, trai giới để tiến hành tiếp nhận Đế vị. Ngày Canh Thân, Tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ vào Vị Ương cung triều kiến Hoàng thái hậu, được phong làm Dương Vũ hầu (阳武侯). Trong ngày đó, triều thần đến trước mặt Lưu Bệnh Dĩ dâng Hoàng đế tỉ thụ, Dương Vũ hầu Lưu Bệnh Dĩ lên ngôi, tức Hán Tuyên Đế.

Tấu xin lập Tuyên Đế năm ấy có nội dung như sau, nhấn mạnh rõ Tuyên Đế là vào cung làm thừa tự cho Chiêu Đế:

Rất nhiều trang thông tin trên mạng đem Thượng Quan Thái hậu tự động lên làm Thái hoàng thái hậu dưới thời Hán Tuyên Đế, đây là một sự sai lầm do không hiểu chế độ "Nhập tự" của người xưa. Sự nhấn mạnh vấn đề 「Thừa tự; 承嗣」 của Hán Tuyên Đế trong tấu chương của Hoắc Quang rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tôn xưng của Thượng Quan thị trong hoàng thất. Theo đó, vì Hán Tuyên Đế đã nhận Chiêu Đế làm "Người cha thừa tự" để lên ngôi, tức danh xưng 「"Tự phụ"; 嗣父」, Hoàng thái hậu Thượng Quan thị do là Hoàng hậu của Chiêu Đế vẫn trên danh nghĩa là 「"Mẫu hậu"」 của Hán Tuyên Đế, nên được giữ vị trí "Hoàng thái hậu" mà không tự động lên làm "Thái hoàng thái hậu" mặc dù bà đã qua tiếp một đời Hoàng đế và còn nhỏ tuổi hơn cả Tuyên Đế, đây là vì Hán Tuyên Đế vào cung nhận mệnh làm con của Hán Chiêu Đế cùng Thượng Quan Thái hậu để kế vị. Tháng 9 năm ấy, lập Hứa Bình Quân làm Hoàng hậu, Hoàng thái hậu Thượng Quan thị chuyển từ Vị Ương cung sang Trường Lạc cung (長樂宮).

Trường Lạc an dưỡng

Năm Địa Tiết thứ 2 (68 TCN), ông ngoại Thượng Quan Thái hậu là Hoắc Quang qua đời, bà cùng với Hán Tuyên Đế đích thân đến khóc tang, dùng lễ tôn kính nhất để cúng bái Hoắc Quang. Tuy nhiên chỉ hai năm sau, toàn bộ gia tộc họ Hoắc bị Tuyên Đế giết chết vì mưu giết Thái tử Lưu Thích và ám hại mẹ của Thái tử là Cung Ai hoàng hậu Hứa Bình Quân. Nhà nội và nhà ngoại đều bị liên lụy và xử trảm thảm khốc, Thượng Quan thị trong cung an nhàn sống cho đến hết đời tại Trường Lạc cung. Trong thời gian này, bà cứ an nhiên hưởng tuổi già, trong số các cung nhân hầu hạ bà, có Tài nhân Phó thị, về sau được bà tiến cử cho Thái tử Lưu Thích, chính là Phó Chiêu nghi.

Năm Sơ Nguyên nguyên niên (48 TCN), ngày 10 tháng 1, Hiếu Tuyên hoàng đế băng hà. Sang ngày 29 tháng 1, Thái tử Lưu Thích lên ngôi, Hoàng thái hậu Thượng Quan thị được tôn Thái hoàng thái hậu. Năm Kiến Chiêu thứ 2 (37 TCN), Thái hoàng thái hậu Thượng Quan thị băng hà tại Trường Lạc cung, hưởng thọ 52 tuổi, hợp táng cùng Hán Chiêu Đế ở Bình lăng (平陵).

Tổng cộng, Thượng Quan thị từ khi vào cung đến lúc mất đã trải qua bốn đời Hoàng đế Đại Hán, bà làm Hoàng hậu 9 năm dưới thời Hán Chiêu Đế, trở thành Hoàng thái hậu 27 ngày dưới thời Xương Ấp vương và 25 năm thời Hán Tuyên Đế, cuối cùng là Thái hoàng thái hậu suốt 12 năm dưới triều đại của Hán Nguyên Đế.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
nhỏ|Chiêu Hiến Hoàng hậu trong bộ lễ phục, ảnh chụp năm 1872 , hay , là Hoàng hậu của Đế quốc Nhật Bản, chính cung của Thiên hoàng Minh Trị. ## Thời thơ ấu Lúc
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Thượng Quan Uyển Nhi** (Phồn thể: 上官婉兒; giản thể: 上官婉儿; 664 - 21 tháng 7, 710), còn gọi là **Thượng Quan Chiêu dung** (上官昭容), là một trong những nữ chính trị gia nổi tiếng của