✨Hứa Hoàng hậu (Hán Tuyên Đế)

Hứa Hoàng hậu (Hán Tuyên Đế)

Hứa Bình Quân (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu Cung Ai Hoàng hậu (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán Nguyên Đế Lưu Thích trong lịch sử Trung Quốc.

Là phu thê từ thuở hàn vi nên Hán Tuyên Đế với bà tình cảm sâu đậm. Hoàng đế hạ chỉ sai tìm lại thanh gươm cũ, ám chỉ không quên thê tử kết tóc, trở thành điển tích 「Cố kiếm tình thâm; 故劍情深」 nổi tiếng trong điển tích văn học Trung Hoa cổ, không kém gì "Tào khang chi thê". Tuy nhiên, bà bị Hoắc Hiển - kế thất của Bác Lục Tuyên Thành hầu Hoắc Quang hại chết để đưa Hoắc Thành Quân làm Kế hoàng hậu.

Xuất thân

Hứa Bình Quân sinh vào khoảng năm Chính Hòa thời Hán Vũ Đế (tức từ 90 TCN đến 88 TCN), cha bà là Hứa Quảng Hán (許廣漢), người Xương Ấp (nay là huyện Kim Hương, tỉnh Sơn Đông). Đương thời Hứa Quảng Hán làm chức Thị tòng cho Xương Ấp Ai vương Lưu Bác – cha của Xương Ấp vương Lưu Hạ, dần dần Hứa Quảng Hán trở thành một trong những nhân viên hộ tống Hán Vũ Đế mỗi khi có dịp đi từ Trường An đến Cam Tuyền cung.

Một lần, do lấy nhầm yên ngựa của người khác, khép vào tội trộm cắp đáng xử tử hình, tuy nhiên có chiếu lệnh tử hình có thể chuyển thành cung hình (thiến), nên Hứa Quảng Hán phải trở thành hoạn quan, là Hoạn giả thừa (宦者丞). Sau đó, Hứa Quảng Hán vì không hoàn thành nhiệm vụ trong việc điều tra vụ án Thượng Quan Kiệt mưu đồ phản nghịch, Hứa Quảng Hán bị Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng điều đi làm chức coi ngục trong Dịch đình.

Lúc ấy, tằng tôn của Hán Vũ Đế là Lưu Bệnh Dĩ được gởi nuôi ở Dịch đình, cùng cư ngụ chung chỗ với Hứa Quảng Hán. Dịch đình lệnh Trương Hạ (张贺), vốn là Gia lại của Lệ Thái tử Lưu Cứ, ông nội của Lưu Bệnh Dĩ, do đó thường chiếu cố Bệnh Dĩ, còn muốn đem con gái của chính mình gả cho. Em trai của Trương Hạ là Trương An Thế (张安世), đang làm Tả tướng quân, cùng với Hoắc Quang phụ tá triều chính, nghe được ý định của anh trai mà khuyên can:"Hoàng tằng tôn là hậu nhân của Lệ Thái tử bị tội, có được cơm ăn áo mặc như bình dân đã là phúc khí, không cần phải đem con gái gả cho hắn mà chịu khổ đâu!". Hứa Bình Quân có nhan sắc, khi này vừa khoảng 15 tuổi, được hứa gả cho con trai của Nội giả lệnh Âu Hầu thị, nhưng chưa kịp xuất giá thì người chồng đã chết. Mẹ của Hứa Bình Quân bèn đem con gái dẫn đi coi bói, đoán được rằng Hứa thị tất phải gả cho quý nhân, mẹ của Bình Quân nghe thế mà sung sướng. Trương Hạ nghe nói Hứa Quảng Hán có cô con gái xinh đẹp, bèn nói vào:"Hoàng tằng tôn tuy địa vị bi hèn, nhưng cũng là họ hàng gần của đương kim Hoàng đế, tương lai ít nhất cũng là Quan nội hầu, có thể gửi gắm con gái cho y!", Quảng Hán nghe thế mới xin cưới Bình Quân cho Bệnh Dĩ.

Năm Nguyên Phượng thứ 6 (75 TCN), Hứa Bình Quân cùng Lưu Bệnh Dĩ thành hôn. Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), bà sinh được Lưu Thích.

Hoàng hậu Đại Hán

Cố kiếm tình thâm

Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), tháng 4, Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng băng hà. Đại thần Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ - chủ cũ của Hứa Quảng Hán làm Thiên tử. Nhưng do Lưu Hạ thiếu tư cách nên chỉ sau khoảng 27 ngày thì bị phế truất. Hoắc Quang đón Lưu Bệnh Dĩ lên ngôi, tức là Hán Tuyên Đế. Hứa Bình Quân là nguyên phối thê tử, nhưng chỉ được phong Tiệp dư.

Lúc đó, Hoắc Quang và vợ đưa con gái nhỏ là Hoắc Thành Quân vào cung dự tuyển Hoàng hậu để tăng thế lực họ Hoắc. Triều thần bàn nhau lập Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu, nhưng Hán Tuyên Đế ra chiếu chỉ yêu cầu tìm lại thanh gươm đã dùng thời kỳ thất thế. Triều thần hiểu ý Tuyên Đế không quên thê tử kết tóc khi còn khó khăn, bèn ủng lập Hứa tiệp dư làm Hoàng hậu. Ngày 19 tháng 11 (âm lịch) cùng năm đó, Hứa Bình Quân được sách lập Hoàng hậu. Tuy Hứa Bình Quân là Hoàng hậu, nhưng cha bà là Hứa Quảng Hán chỉ được phong Xương Thành quân (昌成君), do Hoắc Quang cho rằng ông từng có tội.

Về sau, hành động trọng tình nghĩa của Hán Tuyên Đế đối với Hứa Hoàng hậu được người đời gọi là Cố kiếm tình thâm (故剑情深).

Bị hại vong mạng

Việc Hứa Bình Quân được lập làm Hậu khiến cho nhà họ Hoắc thù ghét và rắp tâm hãm hại, đặc biệt là Hoắc Hiển - vợ Hoắc Quang, mẹ của Hoắc Thành Quân. Năm Bổn Thủy thứ 2 (72 TCN), Hứa Hoàng hậu đang mang thai con thứ hai, Hoắc Hiển nhân cơ hội mưu hại Hoàng hậu nhằm đưa con mình lên thay.

Hoắc Hiển cấu kết với nữ thầy thuốc trong cung là Thuần Vu Diễn để hạ độc Hứa Hoàng hậu. Khi đó chồng Vu Diễn đang làm Dịch đình Hộ vệ, vì muốn thăng chức nên nói vợ:「"Hãy cầu Hoắc phu nhân cho ta làm An Trì giám"」. Vu Diễn cầu xin Hoắc Hiển, Hoắc Hiển nói:「"Ngươi có việc muốn nhờ với ta, ta cũng có việc muốn nhờ với ngươi, có thể chứ?"」, Vu Diễn nói:「"Phu nhân cứ nói!"」. Hoắc Hiển ngỏ ý:「"Hoắc đại tướng quân cực yêu con gái Thành Quân, muốn trở thành Hoàng hậu, việc này cũng chỉ nhờ cậy ngươi!"」. Vu Diễn dò hỏi động thủ thế nào, Hoắc Hiển chỉ:「"Phụ nữ sinh dục là chuyện đại sự, cửu tử nhất sinh. Hôm nay Hoàng hậu chuẩn bị sinh nở, ngươi thừa cơ độc chết, như vậy Thành Quân sẽ trở thành Hoàng hậu. Việc thành, ngươi và ta cùng hưởng phú quý!"」. Trong quá trình hộ sanh, Thuần Vu Diễn lấy thuốc phục tử, cùng đại y, đại hoàn trộn vào đưa cho Hoàng hậu uống. Quả nhiên, Hứa hậu liền hoa mắt chóng mặt, càng thêm khí xúc, nhanh chóng băng thệ.

Tuy đã thành công nhưng Hoắc Hiển chưa mừng vội. Ngay sau đó, triều đình bắt các Y sinh thất trách trong việc làm Hứa hậu mất mạng, giam vào ngục. Hoắc Hiển chột dạ, bèn trình bày sự tình với Hoắc Quang. Hoắc Quang kinh ngạc, âm thầm bỏ lệnh tra khảo Thuần Vu Diễn, tấu Tuyên Đế xử tử để không liên lụy toàn bộ gia tộc họ Hoắc.

Hoàng hậu băng thệ khiến Hán Tuyên Đế hết sức đau buồn, ban thụy hiệu Cung Ai Hoàng hậu (恭哀皇后), chôn cất tại Thiếu lăng (少陵; tức phía nam vườn của Đỗ Lăng). Tuy hai năm sau, Tuyên Đế lập Hoắc Thành Quân làm Kế hoàng hậu và ra vẻ sủng ái, nhưng thâm tâm không quên cái chết của người vợ quá cố.

Hậu sự sau khi mất

Năm Địa Tiết thứ 3 (65 TCN), một năm sau khi Hoắc Quang mất, Tuyên Đế phong Lưu Thích, con trai của Hứa hậu làm Thái tử. Gia tộc họ Hoắc dần mất đi tước thực quyền, dù vẫn được giữ quyền cao chức trọng để che mắt.

Năm sau (66 TCN), Hoắc Hiển âm mưu tạo phản. Hán Tuyên Đế bắt giam toàn bộ nhà họ Hoắc rồi đồng loạt xử tử. Hoắc Hiển và con cái bị chém đầu thị chúng; Hoắc Vũ, em trai Hoắc Thành Quân bị chém ngang lưng; khoảng 1000 người trong gia tộc họ Hoắc bị liên lụy giết chết. Riêng Hoắc Thành Quân bị phế ngôi Hậu, giam vào Chiêu Đài cung (昭台宫), sau đày đến Vân Lâm quán (云林馆) và bức tự vẫn.

Hán Tuyên Đế ra tay tàn sát gia tộc họ Hoắc, vừa để báo thù cho Cố Hoàng hậu Hứa Bình Quân và việc Hoắc hậu cùng mẹ âm mưu hãm hại Thái tử Lưu Thích - con trai Hứa Bình Quân, vừa tự mình trừ bỏ thế lực Hoắc thị, nắm lại triều cương. Năm Địa Tiết thứ 3 (67 TCN), cha Hứa Bình Quân là Hứa Quảng Hán, do là ông ngoại của Thái tử Lưu Thích, được phong Bình Ân hầu (平恩侯). Ông sống đến năm Thần Tước nguyên niên (61 TCN), thụy là Đới hầu (戴侯), không con trai, chọn Hứa Gia (許嘉), con của người em Hứa Diên Thọ (許延壽) kế tục tước Hầu. Hứa Gia về sau sinh Hiếu Thành Hứa Hoàng hậu của Hán Thành Đế Lưu Ngao.

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
nhỏ|Chiêu Hiến Hoàng hậu trong bộ lễ phục, ảnh chụp năm 1872 , hay , là Hoàng hậu của Đế quốc Nhật Bản, chính cung của Thiên hoàng Minh Trị. ## Thời thơ ấu Lúc
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Khâm Thánh Hiến Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖獻肅皇后, 1046 - 1101), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Thần Tông Triệu Húc, đích mẫu của Tống Triết Tông Triệu Hú và Tống Huy Tông
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Theodora** (; Hy Lạp:. Θεοδώρα; - 28 tháng 6 năm 548) là hoàng hậu của Đế chế Đông La Mã, là vợ của Hoàng đế Justinian I. Bà là một trong những hoàng hậu có
**Hoắc Quang** (chữ Hán: 霍光, bính âm: Zimeng, 130 TCN (?) - 21 tháng 4, 68 TCN), biểu tự **Tử Mạnh** (子孟), nguyên là người huyện Bình Dương, quận Hà Đông; là chính trị gia,
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Bắc Tề Vũ Thành Đế** (北齊武成帝) (537–569), tên húy là **Cao Đam**/**Cao Trạm** (高湛), biệt danh **Bộ Lạc Kê** (步落稽), là hoàng đế thứ tư của triều đại Bắc Tề trong lịch sử Trung Quốc.
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Hàn An Quốc** (; ? – 127 TCN), tên tự **Trường Nhụ**, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Móc nối triều
**Hoắc Thành Quân** (chữ Hán: 霍成君, ? - 54 TCN), hay **Phế hậu Hoắc thị**, là Hoàng hậu thứ hai của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Hán. Trở
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
**Triệu Phi Yến** (Phồn thể: 趙飛燕; giản thể: 赵飞燕; 45 TCN - 1 TCN), còn gọi **Hiếu Thành Triệu Hoàng hậu** (孝成趙皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế** (chữ Hán: 北魏孝文帝; 13 tháng 10 năm 467 – 26 tháng 4 năm 499), tên húy lúc sinh là **Thác Bạt Hoành** (拓拔宏), sau đổi thành **Nguyên Hoành** (元宏), là
**_Hiệp sĩ nữ hoàng_** (Tiếng Hàn: 여왕의 기사, Tiếng Anh: The Queen's Knight, Tiếng Đức: Ritter der Königin), do 김강원 (Kim Kang-won), tác giả của I.N.V.U. sáng tác, là một bộ manhwa (truyện tranh Hàn
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**_Nữ hoàng băng giá_** (còn gọi là _Băng giá_, ) là một bộ phim điện ảnh nhạc kịch kỳ ảo sử dụng công nghệ hoạt hình máy tính của Mỹ do Walt Disney Animation Studios
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
nhỏ|phải|Họ Hứa viết bằng chữ Hán **Hứa** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 許, Bính âm: Xu, Wade-Giles: Hui)