✨Hán Nguyên Đế

Hán Nguyên Đế

Hán Nguyên Đế (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy Lưu Thích (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 49 TCN đến năm 33 TCN, tổng cộng 16 năm.

Trong lịch sử, Hán Nguyên Đế được biết đến là vị Hoàng đế đã đặt nền tảng chắc chắn cho Nho giáo, trở thành quốc sách cai trị hàng đầu cho chính quyền trung ương, thăng địa vị những người theo Nho giáo trở thành những quan lại quan trọng. Tuy nhiên, ông thất bại trong việc ngăn chặn các đảng phái đấu đá nhau, giày xéo chính sự trong suốt Triều đại của mình. Nhiều sử gia Trung Quốc đánh giá ông là vị Hoàng đế hồ đồ và thiếu quyết đoán.

Nguyên Đế còn nổi tiếng đến việc gả Vương Chiêu Quân cho Thiền vu Hung Nô, thiết lập bang giao giữa nhà Hán và Hung Nô. Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc bằng những giai thoại dân gian và được liệt vào một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa danh tiếng.

Thân thế

Hán Nguyên Đế Lưu Thích sinh năm 76 TCN, là con trai trưởng của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân và Cung Ai hoàng hậu Hứa Bình Quân. Khi sinh ra, cha mẹ ông khi đó vẫn là những người hoàng thất không danh phận, do ông nội của Tuyên Đế là Lệ thái tử Lưu Cứ, con trưởng của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, bị trọng tội và gia cảnh trở nên bần hàn.

Năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng băng hà mà không có con nối. Đại thần Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ kế vị, nhưng không lâu sau lại phế truất. Hoắc Quang tìm kiếm người hoàng tộc còn lưu lại trong dân gian, và khi đó Hoắc Quang đã biết đến sự tồn tại của Tuyên Đế. Sau khi lên ngôi, Tuyên Đế phong Hứa Bình Quân làm Hoàng hậu. Điều này khiến Hoắc phu nhân vợ của Hoắc Quang không vừa ý, vì bà ta muốn con gái mình Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu. Năm 71 TCN, trong một đợt Hứa hoàng hậu mang thai lần thứ 2, Hoắc phu nhân đã sai nữ y bỏ thuốc vào khiến 2 mẹ con Hứa hoàng hậu đều cùng chết. Tiếc thương cho Hứa hoàng hậu, Tuyên Đế truy thụy bà làm Cung Ai hoàng hậu (恭哀皇后). Lưu Thích khi đó mới 6 tuổi.

Năm 70 TCN, Tuyên Đế phong Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu, đồng thời phong Lưu Thích làm Hoàng thái tử, phong cha Hứa hoàng hậu là Hứa Quảng Hán (許廣漢) làm Bình Ân hầu (平恩侯). Điều này khiến nhà họ Hoắc không vừa lòng, và mẹ con Hoắc hoàng hậu âm mưu quyết định giết hại Thái tử.

Năm 66 TCN, Tuyên Đế điều tra về cái chết của Hứa hoàng hậu, bắt tội cả nhà họ Hoắc, còn Hoắc hoàng hậu thì bị phế truất. Năm 64 TCN, Vương tiệp dư được sắc phong làm Hoàng hậu, và Thái tử Lưu Thích được Vương hoàng hậu yêu thương, chăm sóc tử tế từ đó. Khi đến tuổi đọc sách, ông được học bởi các thầy giáo theo Nho giáo, và từ đó có ảnh hưởng rất lớn đến ông. Hán Tuyên Đế lại xem Nho giáo là những học thuyết không thực tế, và trở nên gay gắt việc đam mê Nho giáo của Thái tử. Tuyên Đế nhiều lần muốn phế Lưu Thích, do Tuyên Đế nhận thấy Thái tử càng lớn càng tỏ ra yếu đuối, nhu nhược chỉ có tác phong của một Nho sinh chứ không có khí chất của bậc Thiên tử. Ngược lại, Tuyên Đế lại đánh giá cao vị hoàng tử thứ ba của mình là Lưu Hiêu, bởi vì vị hoàng tử này ngay từ nhỏ đã rất thông minh, đĩnh đạc, theo tư tưởng Pháp gia, Tuyên đế rất sủng ái ông ta và đã rất nhiều lần muốn lập ông ta làm Thái tử thay cho Lưu Thích. Nhưng do nhiều đại thần đứng ra khuyên can rằng Thái tử chưa bao giờ gây ra lỗi lầm gì, lại thêm trong quá trình xử lý chính sự quốc gia cũng có nhiều hành động rất thoả đáng, quan trọng nhất là ông vốn là con đích trưởng do tiên hậu quá cố Hứa Bình Quân sinh ra, theo trình tự thì không nên bỏ con đích trưởng mà lập con thứ xuất nên đã khiến Tuyên Đế thay đổi quyết định phế lập Thái tử do Đế lúc đó còn quá nặng tình với Hứa hoàng hậu quá cố. Vì thế mà ngôi Thái tử của Lưu Thích mới được bảo toàn vững chắc.

Năm 49 TCN, Hiếu Tuyên hoàng đế băng hà, Thái tử Lưu Thích lên ngôi, năm đó ông 27 tuổi. Trước khi qua đời, Tuyên Đế phó thác ông cho Sử Cao (史高), Chu Kham (周堪) và Tiêu Vọng Chi (蕭望之).

Hoàng đế nhà Hán

Xảy ra Đảng tranh

Thời gian đầu kế vị, Nguyên Đế là người chăm lo chính sự. Ông lập tức thi hành các chính sách tiết kiệm, giảm tô thuế, ban trợ lương thực cho dân chúng gặp nạn đói. Trái với chính sách của Tuyên Đế, Nguyên Đế tích cực trọng dụng Nho thần vào bộ máy triều đình.

Theo di chiếu của Tuyên Đế, chức Đại tư mã được trao cho Sử Cao, chức Thái phó giao cho Tiêu Vọng Chi, chức Thiếu phó cho Chu Kham. Trong 3 người này, Tiêu Vọng Chi và Chu Kham từng là thầy học của Nguyên Đế. Trong triều khi đó chia ra làm 2 đảng phái chính; một bên đứng đầu là Tiêu-Chu cùng với một người trong hoàng tộc, cũng là Nho giáo đảng, tức Lưu Canh Sanh (劉更生). Một bên đối trọng đứng đầu bởi Sử Cao, Hoằng Cung (弘恭) và Thạch Hiển (石顯).

Đảng Nho giáo có được vị thế cao là do sự ảnh hưởng của Tiêu-Chu đối với Nguyên Đế, khi cả hai đều là thầy dạy của Nguyên Đế từ khi còn là Thái tử. Còn đảng phái do Sử Cao đứng đầu là dựa vào sự thân thích; khi Sử Cao là anh em họ bên ngoại của Hán Tuyên Đế, và Hoằng Cung cùng Thạch Hiển là 2 hoạn quan thân tính của Nguyên Đế. Về việc triều chính, hai đảng phái này đối đầu với nhau căn bản là do đảng Nho giáo ủng hộ quay về những chính sách thời nhà Chu, còn đảng Sử Cao lại ủng hộ giữ gìn những chính sách cũ của nhà Hán khi trước.

Năm 47 TCN, Sử Cao đã bày mưu khiến Chu Kham và Lưu Canh Sanh bị phế truất làm thường dân; còn Tiêu Vọng Chi bị bãi chức. Về sau, bằng âm mưu của mình, Sử Cao đã lừa khiến Tiêu Vọng Chi phải tự sát trong ngục. Về sau, Nguyên Đế biết sự thực và khiển trách Sử Cao nặng nề, tuy nhiên vẫn không nỡ phạt nặng ông ta. Nguyên Đế cho người mai táng Tiêu Vọng Chi một cách long trọng nhất.

Năm 46 TCN, Nguyên Đế vời Chu Kham về triều, trao cho chức quan phụ chính, cùng theo đó trọng dụng học trò của Chu là Trương Mãnh (張猛), cháu nội của đại thần Trương Khiên nổi tiếng thời Hán Vũ Đế. Tuy giữ chức vị không cao, nhưng 2 thầy trò Chu Trương vẫn được Nguyên Đế xem trọng và thường xuyên hỏi chuyện chính sự. Năm 44 TCN, Nguyên Đế trọng dụng Cống Vũ (貢禹) vào vị trí Tể tướng. Là một người không dính vào bất kì phe phái nào, Cống Vũ đã giúp Nguyên Đế thực thi các chính sách tiết kiệm trong hệ thống quan lại chính quyền và nâng cao sự phát triển của Nho giáo.

Năm 43 TCN, Thạch Hiển lại liên kết với họ Hứa của Cung Ai hoàng hậu và Sử Cao, đã lợi dụng những biến đổi về thiên tượng, tố cáo 2 thầy trò Chu trương là nguyên nhân của sự thay đổi này. Ngay lập tức, Chu Trương bị biếm đến giữ những chức vụ thấp tại địa phương. Sang năm đó, Nguyên Đế trọng dung Nho thần Khuông Hành (匡衡) làm đại thần đắc lực của mình. Khuông Hành nhận thấy phe đảng tranh đấu, để tự bảo vệ mình, đã theo phe cùng với đảng của Sử và Thạch. Năm 40 TCN, Nguyên Đế nghi ngờ Sử Cao và Thạch Hiến dối lừa mình, đã cho vời 2 thầy trò Chu Trương trở về Trường An. Bái Chu Kham làm Quang lộc đại phu, trật 2000 thạch. Sử Cao và Thạch Hiển lo sợ. Chu Kham bệnh chết, Thạch Hiển tố cáo tội trạng Trương Mãnh giết thầy mình, khiến Mãnh phải tự sát.

Về sau, đại thần Kinh Phòng (京房) không chịu nổi sự chuyên quyền của Sử Cao và Thạch Hiển, đã chống đối họ bằng cách chiếm được sự tin yêu của Nguyên Đế thông qua việc bói toán. Vào một dịp, Kinh Phòng tố cáo Sử Cao cùng Ngũ Lộc Sung Tông (五鹿充宗) giả trò tà đạo mê hoặc Nguyên Đế. Tuy nhiên, Nguyên Đế không làm gì bọn Sử cả, và về sau Kinh Phòng bị Sử Cao hãm hại vì bị tố cáo mưu phản cùng Hoài Dương vương Lưu Khâm (劉欽), em thứ của Nguyên Đế.

Đối ngoại

Phía đông bắc

Thời kỳ ông cai trị, phía đông bắc nhà Hán, quận Huyền Thố thuộc Hán tứ quận luôn xảy ra các cuộc chiến tranh với vua Kim Oa (Geumwa) nước Đông Phù Dư (Dongbuyeo) và các quốc gia nhỏ bé ở Tốt Bản (Jolbon). Năm 37 TCN Cao Chu Mông (Go Jumong) đào thoát từ Đông Phù Dư sang Tốt Bản rồi thống nhất 5 nước ở Tốt Bản và tuyên bố thành lập quốc gia Cao Câu Ly, chống đối lại nhà Hán. Quan quân nhà Hán ở quận Huyền Thố thuộc Hán tứ quận và thành trì ở Liêu Đông hợp sức giao tranh với quân đội của Cao Câu Ly nhiều lần nhưng đều bại trận trong suốt thời gian Hán Nguyên Đế tại vị.

Phía bắc và tây bắc

Phía bắc nhà Hán của ông luôn có trọng binh canh giữ để ngăn người Hung Nô xâm phạm biên cương, vì người Hung Nô hiện đang chia làm hai phe đối đầu nhau là Hô Hàn Tà và Chế Chi. Hô Hàn Tà thì triều cống nhà Hán từ trước nhưng Chế Chi thì luôn quấy phá biên cương phía bắc nhà Hán. Năm 36 TCN, một viên tướng trẻ của nhà Hán là Trần Thang (陈汤), với sự hỗ trợ của Cam Duyên Thọ (甘延壽), quan tổng nhiếp chính của nhà Hán ở Tây Vực, đã chỉ huy một lực lượng viễn chinh Tây Vực tiến đánh Thiền Vu Chế Chi. Trần Thang vạch kế hoạch lấy cánh quân ở đồn điền liên minh cùng với quân Ô Tôn đánh thẳng Chế Chi, nhưng Cam Diên Thọ vẫn phân vân chưa quyết, lấy cớ dâng sớ về triều hỏi ý kiến Hán Nguyên Đế. Trần Thang không thể chờ đợi lâu bèn quyết định giả truyền thánh chỉ, triệu tập binh lính đồn điền và binh lính nước Xa Sư. Cam Diên Thọ lúc này đang ốm nặng nghe vậy vội vàng ngăn cản nhưng không được đành phải nghe theo.

Trần Thang và Cam Diên Thọ tập hợp đại quân được bốn vạn người chia thành sáu hiệu: ba hiệu tiến về hướng nam đến Thông Lĩnh, Đại Uyển; ba hiệu còn lại đi về hướng bắc vào Xích Cốc, qua Ô Tôn và biên giới Khang Cư. Trần Thang lấy ân uy ra phủ dụ Khang Cư, được nước này tình nguyện mở đường chỉ lối vào nơi ở của Chế Chi. Sau đó đại quân nhà Hán tiến thẳng tới thành đô Taraz (Lại Thủy), bày binh bố trận cách thành ba dặm. Cam Diên Thọ và Trần Thang quan sát hồi lâu rồi mới lệnh cho binh sĩ vây thành, bắn bị thương những tên lính gác. Hai bên bắt đầu cuộc chiến bằng cung tên thật dữ dội. Được tin quân Hán tiến công, Thiền Vu Chế Chi đã tính đường tháo chạy. Tới khi quân Hán đánh rát quá, Thiền Vu Chế Chi mình mặc giáp trụ cùng thê thiếp và tùy tùng bước lên mặt thành cố thủ nhưng đều bị quân Hán bắn bị thương. Chế Chi quá sức kinh hãi liền xuống thành, lên ngựa phóng thẳng về cung thất.

Ngày hôm sau, Trần Thang lệnh cho các tướng sĩ đốt lửa đánh thành ở cả bốn mặt, chiêng trống nổi lên hỗ trợ. Quân Hán xông qua khói lửa phá thành. Lúc này, bên cạnh Chế Chi chỉ còn đám tùy tùng và một số quan lại chức sắc, bọn họ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn bỏ mặc Chế Chi lại một mình. Quân Hán cứ thế xông vào, đâm chết Chế Chi. Quân hầu Đỗ Huân chạy đến chặt thủ cấp của Chế Chi, binh lính Hán kéo nhau tới phá ngục cứu được hai sứ giả nhà Hán và tìm thấy những văn thư mà sứ giả Cốc Cát của nhà Hán từng mang theo. Tướng sĩ vào thành lùng bắt kẻ thù, giết chết đám thê thiếp, thái tử và những vương công Hung Nô được Chế Chi phong; bắt sống quan lại và gọi hàng binh lính địch, rồi giao lại cho các nước tham chiến.

Cuộc chiến lần này thắng lợi, không những đã trừ tiệt được hậu họa lớn ở Tây Vực mà còn giúp nâng cao uy tín của triều Hán trong vùng. Lúc này, Cam Diên Thọ và Trần Thang mới dâng sớ về triều đình ở Trường An cùng với thủ cấp của Chế Chi làm chiến lợi phẩm. Hai người bọn họ cùng các tướng sĩ đang trên đường trở về thì quan Tự Đại hiệu úy trong triều cũng xuất phát từ Trường An. Hai bên gặp nhau trên đường và Trần Thang phải dừng lại và bị lục soát. Do Hán Nguyên Đế nhân được mật báo Trần Thang sau khi phá xong Chế Chi đã cất giấu không ít châu báu hòng làm của riêng, vì vậy Tự Đại hiệu úy mới cản đường lục soát, chuẩn bị bắt bớ. Trần Thang lập tức dâng sớ kêu oan, Hán Nguyên Đế liền hạ lệnh cho quan Tự Đại lui về và các quận huyện, thành ven đường phải bày tiệc tiếp đón đoàn quân thắng lợi trở về.

Sau này, khi luận công ban thưởng ở trong triều, Trung thủ lệnh Thạch Hiển và Khuông Hành cứ một mực phủ nhận công lao của Trần Thang, khiến Hán Nguyên Đế dùng dằng chưa ban thưởng vội. Tông chính Lưu Hướng khuyên mãi Hán Nguyên Đế mới hạ chiếu miễn tội giả truyền thánh chỉ của Cam Diên Thọ và Trần Thang rồi để các đại thần bàn chuyện khen thưởng. Bọn Thạch Hiển, Khuông Hành đều chủ trương như cũ. Cuối cùng, Hán Nguyên Đế phong Cam Diên Thọ là Nghĩa Thành hầu, Trần Thang là Quan Nội hầu. Mỗi người còn được ba trăm hộ làm thực ấp, vàng một trăm cân, còn bổ nhiệm Trần Thang là Xạ Thanh hiệu úy, Cam Diên Thọ là Tràng Thủy hiệu úy.

Sau đó Hán Nguyên Đế đem cống Vương Chiêu Quân năm 33 TCN cho Hô Hàn Tà thì người Hung Nô mới dừng việc xâm phạm nhà Hán trong vòng gần 100 năm nữa.

Cống Chiêu Quân cho người Hồ

Lúc đó Hung Nô phía bắc đã thống nhất được Nam bắc sau thời kỳ chia cắt. Đầu năm 33 TCN, Thiền Vu Hô Hàn Tà đến thăm Trường An. Hán Nguyên Đế quyết định chọn một cung nữ, lấy lễ tiết công chúa gả cho Hô Hàn Tà. Vì vậy ông ra lệnh trong các cung nữ: Ai tình nguyện lấy vua Hung Nô sẽ được coi như công chúa.

Các cung nữ đều ngần ngại sang Hung Nô. Có cung nữ Vương Tường - tức Vương Chiêu Quân (王昭君) - tình nguyện lấy Hô Hàn Tà. Đến ngày hôn lễ giữa Hô Hàn Tà và Vương Chiêu Quân, Nguyên Đế thấy nàng xinh đẹp nên rất hối tiếc. Ông bèn hạ lệnh mang bức tranh nàng ra xem, thì thấy bức tranh do họa sĩ Mao Diên Thọ vẽ không giống chân dung thật. Nguyên do vì Mao Diên Thộ bắt các cung nữ phải đút lót mới vẽ hình đẹp để được vào gặp vua, nếu không chịu hối lộ sẽ bị vẽ hình xấu.

Nguyên Đế thấy tranh Mao Diên Thọ vẽ sai với người thật, bèn sai bắt chém Thọ.

Vì Vương Chiêu Quân được sủng ái và khuyên Hô Hàn Tà giữ hòa khí với nhà Hán nên vùng biên giới Hán-Hung Nô trong hơn 60 năm không có chiến tranh. Chính Nguyên Đế cũng tự mình than vãn rằng: "Quốc gia đã cực loạn rồi".

Niên hiệu

Trong thời gian ở ngôi, Hán Nguyên Đế dùng các niên hiệu:

  • Sơ Nguyên (初元; 48-44 TCN)
  • Vĩnh Quang (永光; 43-39 TCN)
  • Kiến Chiêu (建昭; 38-34 TCN)
  • Cánh Ninh (竟寧; 33 TCN)

Gia quyến

  • Cha: Hán Tuyên Đế Lưu Tuân.

  • Mẹ: Cung Ai hoàng hậu Hứa Bình Quân (恭哀皇后许平君, ? - 71 TCN).

  • Vợ:

    Lương đệ Tư Mã thị (良娣司馬氏), mất sớm.

    Hiếu Nguyên hoàng hậu Vương Chính Quân (孝元皇后王政君, 71 TCN - 13).

    Phó chiêu nghi (傅昭儀, ? - 2 TCN).

    Phùng chiêu nghi (馮昭儀, ? - 4 TCN).

    Vệ tiệp dư (婕妤衛氏).

    Vương Chiêu Quân (王昭君), nhập cung nhưng chưa từng diện thánh, giữ thân phận Gia nhân tử (phi tần không chính thức) đến khi gả sang Hung Nô.

  • Con trai:

    Hán Thành Đế Lưu Ngao (劉驁), mẹ là Vương hoàng hậu.

    Định Đào Cung vương Lưu Khang (定陶恭王劉康, ? - 23 TCN), mẹ là Phó Chiêu nghi.

    Trung Sơn Hiếu vương Lưu Hưng (中山孝王劉興, ? - 7 TCN), mẹ là Phùng Chiêu nghi.

  • Con gái:

    Bình Đô Công chúa (平都公主), mẹ là Phó Chiêu nghi.

    Bình Dương Công chúa (平阳公主), mẹ là Vệ tiệp dư.

    Dương A Công chúa (阳阿公主), mẹ là Vệ tiệp dư.

    Dĩnh Ấp Công chúa (潁邑公主), mẹ không rõ.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hán Nguyên Đế** (_chữ Hán_:漢元帝) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Hán Nguyên Đế Lưu Thích, gọi tắt theo thụy hiệu thật là Hiếu Nguyên Đế, vị Hoàng đế
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Hán Ai Đế** (chữ Hán: 漢哀帝; 26 TCN – 1 TCN) tên thật là **Lưu Hân** (劉欣) là vị Hoàng đế thứ 13 của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi từ
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hiếu Cảnh Bạc hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景薄皇后; ? - 147 TCN), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Cảnh Đế Lưu Khải, vị Hoàng đế thứ sáu của Tây Hán trong
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Nguyên Đế** (chữ Hán: 元帝 hoặc 原帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Đường Huyền Nguyên Đế (truy tôn) *Hán Nguyên Đế (gọi tắt, thụy hiệu gốc là Hiếu
**Hán An Đế cung nhân Lý thị** (chữ Hán: 漢安帝宮人李氏; ? - 115), thụy **Cung Mẫn hoàng hậu** (恭愍皇后), là một phi tần của Hán An Đế Lưu Hỗ, sinh mẫu của Hán Thuận Đế
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
**Hán Thương Đế** (chữ Hán: 漢殤帝; 105 - 106), tên thật là **Lưu Long** (劉隆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 20 của nhà Hán trong
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Đại vương hậu** () là nguyên phối thê tử của Hán Văn Đế Lưu Hằng khi ông còn là **Đại vương** (代王) nước Đại (196 TCN - 180 TCN), nước chư hầu của nhà Hán.
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Hán Chương Đế Lương quý nhân** (chữ Hán: 汉章帝梁貴人, 61 - 83), thụy hiệu **Cung Hoài Hoàng hậu** (恭懷皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát và là thân mẫu của Hán Hòa
**Giả quý nhân** (chữ Hán: 贾贵人; ? - ?) là một phi tần của Hán Minh Đế Lưu Trang, hoàng đế thứ hai nhà Đông Hán và sinh mẫu của Hán Chương Đế Lưu Đát,
**Đổng quý nhân** (chữ Hán: 董貴人, ? - 200) là một phi tần của Hán Hiến Đế Lưu Hiệp và là con gái của Đổng Thừa, một viên quan được coi là trung thần nhà
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là