✨Hán Cảnh Đế

Hán Cảnh Đế

Hán Cảnh Đế (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là Lưu Khải (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở ngôi từ năm 157 TCN đến năm 141 TCN, tổng cộng gần 16 năm.

Trong thời đại của mình, Hán Cảnh Đế tiếp tục duy trì những chính sách do cha ông là Hán Văn Đế thực hiện, nên đất nước thái bình thịnh trị, thời đại của ông và Hán Văn Đế được gọi là Văn Cảnh chi trị (文景之治).

Dẹp loạn 7 nước

Loạn 7 nước chư hầu phía đông xảy ra xuất phát từ việc nhà Hán muốn giảm bớt thế lực của các chư hầu. Do binh quyền của các chư hầu rất lớn, từ thời Văn đế đã tìm cách chia nhỏ các chư hầu để giảm sức mạnh của họ và giảm sự uy hiếp đối với thiên tử: chia nước Tề làm 6 phần và nước Hoài Nam làm 3 phần.

Tiều Thố từng kiến nghị chia nước Ngô của Lưu Tỵ - con Lưu Trọng anh của Hán Cao Tổ, tức là anh họ của Văn Đế - nhưng Văn đế ngại thế nước Ngô đang mạnh sẽ gây xung đột nên chưa thực hiện. Khi Cảnh Đế lên ngôi, Ngô vương Tỵ là bậc lão thần, càng tỏ ra kiêu căng hống hách, bỏ việc vào chầu thiên tử đã 20 năm.

Năm 154 TCN, Tiều Thố giữ chức Ngự sử đại phu tiếp tục kiến nghị việc này, cùng việc cắt bớt đất của các chư hầu khác, theo đó sẽ tước bớt quận Đông Hải của Sở vương, tước bớt quận Dự Chương và quận Cối Kê của Ngô vương Tỵ, tước bớt quận Thường Sơn của Triệu vương và 6 huyện của Giao Tây vương.

Thời Văn Đế, Lưu Tỵ đã có tư thù với Lưu Khải vì khi làm Thái tử, ông từng đập chết con trai Ngô vương khi hai người chơi cờ ở Trường An và xảy ra tranh cãi. Khi nghe tin bị tước bớt đất đai, Ngô vương rất tức giận, bèn phát binh làm phản. Để có thêm vây cánh, Lưu Tỵ kêu gọi các chư hầu khác hưởng ứng, với danh nghĩa là diệt trừ gian thần Tiều Thố, "làm sạch chỗ cạnh vua". Sáu nước ủng hộ Ngô vương hợp lại thành 7 nước gồm có:

Ngô vương Lưu Tỵ (吳王劉濞)

Sở vương Lưu Mậu (楚王劉戊)

Triệu vương Lưu Toại (趙王劉遂)

Tế Nam vương Lưu Tịch Quang (濟南王劉辟光)

Tri Xuyên vương Lưu Hiền (菑川王劉賢)

Giao Tây vương Lưu Ngang (膠西王劉卬)

Giao Đông vương Lưu Hùng Cừ (膠東王劉雄渠)

Ngô vương Tỵ còn hiệu triệu thêm Đông Việt và Mân Việt hưởng ứng theo; Triệu vương Toại cũng sai sứ giả đến liên lạc với Hung Nô để xin phát binh ủng hộ.

Thế quân 7 nước rất lớn. Trong triều, Tiều Thố và Viên Áng bất hòa. Viên Áng khuyên Hán Cảnh Đế nên bắt giết Tiều Thố thì quân chư hầu sẽ lui, vì chư hầu chỉ oán một mình Tiều Thố. Cảnh Đế trong tình hình nguy cấp, vội vã nghe theo Viên Áng, bèn sai triệu kiến Tiều Thố rồi bắt giữ và chém ngang lưng ở chợ Đông. Cảnh Đế sai Viên Áng làm thái thường, lãnh trách nhiệm sứ giả đi báo với Ngô vương việc giết Tiều Thố và phục lại đất đai cho chư hầu. Lúc đó Ngô vương và Sở Vương đang vây đánh nước Lương. Ngô vương không những không lui binh mà bắt luôn Viên Áng, ép phải theo mình làm phản. Viên Áng tìm cơ hội trốn thoát được.

Hán Cảnh Đế nhận ra chân tướng ý đồ của Ngô vương, rất ân hận vì đã giết Tiều Thố. Ông nhớ lời dặn của Văn Đế: có thể nhờ cậy Chu Á Phu (周亞夫) khi nguy cấp, nên sai Chu Á Phu (con Chu Bột) đi dẹp loạn. Ông phong Á Phu làm thái úy, cầm đầu quân đội trong triều, mang 36 tướng ra trận.

Trong khi Ngô và Sở đánh Lương thì 4 nước Giao Đông, Giao Tây, Tế Nam và Tri Xuyên vây đánh Tề vì Tề vương vốn nhận lời làm phản rồi lại hối hận không theo Ngô vương.

Trước lúc ra quân, Chu Á Phu kiến nghị Cảnh đế không nên đối địch với quân Ngô đang hăng hái mà nên cắt đứt đường vận lương của địch. Cảnh Đế chấp thuận.

Chu Á Phu lại đóng quân cố thủ ở Xương Ấp, cắt đường liên lạc quân Ngô Sở với 4 nước phía đông, để quân Ngô bị hút vào chiến trường nước Lương sẽ bị tổn sức. Quân Ngô vây đánh nước Lương không hạ được. Lương Hiếu vương Lưu Vũ là em út của Cảnh Đế, kiên cường giữ thành chống trả quân Ngô. Khi quân Lương cầu cứu, Á Phu không ra quân. Lương vương sai sứ về kinh tâu lên Cảnh Đế. Ông sai người ra giục Á Phu cứu Lương, nhưng Á Phu cố giữ chiến thuật đánh Ngô, không cứu Lương.

Ngô vương Tỵ nghe tin quân Hán kéo đến, bèn quay sang đánh Hán. Đường vận lương của Lưu Tỵ bị Á Phu cắt đứt nên phải đánh nhanh, nhưng Á Phu giữ vững trận thế không giao chiến.

Nhân lúc quân Ngô, Sở dao động vì thiếu lương, Á Phu mang đại quân phản kích. Quân Ngô, Sở nhanh chóng bị thua tan tác, phần lớn đầu hàng Hán và Lương. Ngô vương Tỵ bỏ chạy qua sông Trường Giang, bị người Đông Việt giết, mang đầu nộp cho Chu Á Phu. Sở vương Lưu Mậu bại trận đã tự sát.

Chu Á Phu mang quân cứu Tề. Bốn nước Giao Đông, Giao Tây, Tế Nam và Tri Xuyên đánh 3 tháng không hạ được, liệu thế không chống nổi quân Hán nên giải vây rút về nước. Quân Hán kéo đến vây các nước, bức bách 4 chư hầu vương tự sát. Cùng lúc, Lệ tướng quân vây đánh nước Triệu, hạ được thành. Triệu vương Toại cũng tự sát nốt.

Giảm thế lực chư hầu

Ngay từ trước khi loạn 7 nước bùng nổ, bản ý của Cảnh Đế rất hợp với ý tưởng của Tiều Thố: tước bớt quyền hành, đất đai của chư hầu. Dẹp xong loạn 7 nước, Hán Cảnh Đế ra lệnh xóa bỏ nước phong của các chư hầu này, đưa đất đai về dưới quyền quản lý trực tiếp của hoàng đế. Ngoài ra, ông còn tiến hành chỉnh lý địa giới một số nước chư hầu, thu nhỏ quyền lực của họ, như nước Sở chỉ có quận Bành Thành, nước Đại chỉ có quận Thái Nguyên.

Lương Hiếu vương Lưu Vũ là em ông, con út của Đậu thái hậu, sau khi tham gia đánh dẹp loạn 7 nước, thường tỏ ra cậy công và nhờ mẹ tác động để Cảnh Đế lập làm người nối ngôi.

Năm 150 TCN, nhân Cảnh Đế phế thái tử Lưu Vinh làm Lâm Giang vương (臨江王), Đậu thái hậu khuyên Cảnh Đế lập Lương vương Vũ làm người kế vị. Viên Áng can Cảnh Đế không nên lập Lương vương Vũ. Lương vương Vũ từ đó oán hận Viên Áng, bèn sai thích khách là Dương Thắng và Công Tôn Ngụy đi giết chết Viên Áng và hơn 10 viên quan khác cùng cánh trong triều. Cảnh Đế kinh ngạc vì một ngày có tới hơn 10 đại thần bị giết, bèn sai Điền Thúc đến nước Lương điều tra vụ việc. Dương Thắng và Công Tôn Ngụy buộc phải tự sát, Điền Thúc biết thế khó xử của Cảnh Đế, khi về kinh bèn đốt hết giấy tờ hồ sơ vụ án rồi mới vào yết kiến, tâu lại sự việc và xin Cảnh Đế lờ vụ việc này đi. Cảnh Đế bằng lòng theo ý kiến của Điền Thúc, không xử tội Lưu Vũ vì có sự che chở của Đậu thái hậu.

Năm 144 TCN, Lương vương Vũ qua đời. Cảnh đế nhân đó chia nhỏ nước Lương làm 5 phần. Sau đó ông lại lần lượt phong cho 3 người con mình làm vương chư hầu, khiến số lượng chư hầu nhà Tây Hán lên tới 25 nước, nhiều nhất kể từ khi nhà Hán thành lập. Hầu hết đất đai chư hầu từ đó chỉ có 1 quận, thế lực yếu hơn nhiều so với trước đó.

Qua đời

thumb|Di tích Dương Lăng. Năm 141 TCN, ngày 9 tháng 3, Hán Cảnh Đế Lưu Khải giá băng ở Vị Ương cung (未央宮), hưởng dương 47 tuổi. Ông được tôn là Hiếu Cảnh hoàng đế (孝景皇帝), an táng tại Dương Lăng (阳陵). Thái tử Lưu Triệt 16 tuổi lên nối ngôi, tức là Hán Vũ Đế.

Cũng như trường hợp cha ông là Hán Văn Đế, thời kỳ của ông được chia ra 3 phần là do đời sau đặt, còn niên hiệu chính thức thật sự chỉ từ thời Hán Vũ Đế mới được hình thành. Thời gian trị vì của ông chia làm 3 phần:

Tiền Nguyên (前元; 156-150 TCN).

Trung Nguyên (中元; 149-144 TCN).

Hậu Nguyên (後元; 143-141 TCN).

Gia quyến

  • Thân phụ: Hán Văn Đế Lưu Hằng.

  • Thân mẫu: Hiếu Văn Đậu hoàng hậu (孝文竇皇后; 205 TCN - 135 TCN), một trong những Hoàng hậu có ảnh hưởng nhất lịch sử nhà Hán.

  • Hậu phi:

    Bạc hoàng hậu (? - 147 TCN), cháu gái của Bạc Thái hoàng thái hậu, không có con cũng như không được sủng ái. Năm 155 TCN, Bạc Thái hoàng thái hậu qua đời, năm 151 TCN Bạc hoàng hậu bị phế truất.

    Hiếu Cảnh hoàng hậu Vương Chí (174 TCN - 125 TCN), mẹ của Hán Vũ Đế Lưu Triệt cùng 3 công chúa Bình Dương công chúa, Nam Cung công chúa và Long Lự công chúa.

    Lịch cơ (栗姬, ? - 150 TCN), người nước Tề, dung mạo xuất chúng, rất được sủng ái, sinh ra hoàng trưởng tử - Thái tử Lưu Vinh. Sau bị Quán Đào Công Chúa - chị Hán Cảnh Đế cấu kết với Vương hoàng hậu dèm pha trước mặt vua, khiến vua giận phế Lưu Vinh xuống làm Lâm Giang vương và không tới gặp Lịch Cơ nữa, khiến bà uất ức qua đời.

    Trình cơ (程姬), thời Hán Vũ Đế trở thành Lỗ Quốc vương thái hậu.

    Đường cơ (唐姬), thị nữ của Trình cơ, khi Trình cơ bị ốm không thị tẩm được bèn sủng tạm Đường cơ.

    Cổ phu nhân (賈夫人).

    Vương phu nhân (王夫人), tên là Nghê Hủ (兒姁), em gái của Vương hoàng hậu. Mẹ của Quảng Xuyên vương Lưu Việt, Giao Đông vương Lưu Ký, Thường Sơn vương Lưu Thuấn và Thanh Hà vương Lưu Thừa

  • Hoàng tử:

    Lâm Giang Mẫn vương Lưu Vinh (臨江閔王 劉榮, 170 - 148 TCN), mẹ Lịch cơ, lập Thái tử năm 153 TCN, phế năm 150 TCN, bị buộc tự sát năm 148 TCN.

    Hà Gian Hiến vương Lưu Đức (河間獻王 劉德; 160 - 129 TCN), mẹ Lịch Cơ.

    Lỗ Cung vương Lưu Dư (魯恭王 劉餘; ? - 127 TCN), mẹ Trình cơ, ban đầu là Hoài Dương vương, là tổ tiên trực hệ của Lưu Biểu, Lưu Chương thời Tam Quốc.

    Lâm Giang Ai vương Lưu Át (臨江哀王 劉閼; ? TCN), chết yểu, mẹ Lịch Cơ.

    Giang Đô Dịch vương Lưu Phi (江都易王刘非; 169 TCN - 127 TCN), mẹ là Trình Cơ, phong Giang Đô vương năm 153 TCN.

    Trường Sa Định vương Lưu Phát (长沙定王刘发; ? - 129 TCN), mẹ là Đường Cơ, là tổ tiên trực hệ của Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú sáng lập ra nhà Đông Hán.

    Giao Tây Vu vương Lưu Đoan (胶西于王刘端; ? - 108 TCN), mẹ là Trình Cơ.

    Triệu Kính Túc vương Lưu Bành Tổ (赵敬肃王刘彭祖; ? - 92 TCN), mẹ là Cổ Phu nhân.

    Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng (中山靖王劉勝; ? - 114 TCN), mẹ Cổ phu nhân, là tổ tiên trực hệ của Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị sáng lập nhà Thục Hán thời Tam Quốc.

    Quảng Xuyên Huệ vương Lưu Việt (廣川惠王劉越; ? - 130 TCN), mẹ Vương phu nhân.

    Hán Vũ Đế Lưu Triệt (劉徹), mẹ Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu.

    Giao Đông Khang vương Lưu Ký (膠東康王劉寄; ? - 120 TCN), mẹ Vương phu nhân.

    Thanh Hà Ai vương Lưu Thừa (清河哀王刘乘; ? - 136 TCN), mẹ Vương phu nhân.

    Thường Sơn Hiến vương Lưu Thuấn (常山宪王刘舜; ? - 114 TCN), mẹ Vương phu nhân.

  • Hoàng nữ:

    Bình Dương công chúa (平陽公主), mẹ Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu. Hạ giá Tào Thì (曹時), sau lấy Hạ Hầu Pha (夏侯颇); cuối cùng lấy Vệ Thanh.

    Nam Cung công chúa (南宮公主), mẹ Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu.

    Long Lự công chúa (隆慮公主), mẹ Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu.

Thế phả nhà Hán

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Cảnh Bạc hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景薄皇后; ? - 147 TCN), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Cảnh Đế Lưu Khải, vị Hoàng đế thứ sáu của Tây Hán trong
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Hàn Canh** (, sinh ngày 9 tháng 2 năm 1984), cũng được biết tới tại Hàn Quốc với tên âm Hán-Hàn là **Hankyung** (한경, _Han Gyeong_), là một nam ca sĩ, vũ công, diễn viên
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hán Thành Đế** (chữ Hán: 汉成帝; 51 TCN – 17 tháng 4, 7 TCN), húy **Lưu Ngao** (劉驁) là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Cảnh Đế** (chữ Hán: 景帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Hán Cảnh Đế, gọi tắt theo thụy hiệu gốc là Hiếu Cảnh Đế *Ngô Cảnh Đế *Tấn Cảnh
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hàn Cảnh hầu** (chữ Hán: 韩景侯, trị vì: 408 TCN - 400 TCN), là vị vua đầu tiên của nước Hàn - chư hầu nhà Chu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Linh Hoài Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 靈懷王皇后; ? - 9 tháng 4 năm 181), cũng gọi **Hiếu Linh Vương mỹ nhân** (孝靈王美人), là một phi tần của Hán Linh Đế Lưu Hoành, và là
**Đường Cơ** (chữ Hán: 唐姬) là một nữ quý tộc cuối thời Đông Hán, chính thất phu nhân của Hán Thiếu Đế Lưu Biện. ## Cuộc đời Vương phi Đường thị người quận Dĩnh Xuyên,
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Hàn An Quốc** (; ? – 127 TCN), tên tự **Trường Nhụ**, người Thành An, nước Lương , là tướng lĩnh, đại thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Móc nối triều
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
nhỏ|455x455px| Bản đồ [[Nhà Hán năm 195 TCN, bao gồm lãnh thổ do triều đình trực tiếp quản lý và lãnh thổ các phiên quốc xung quanh (Yên, Đại, Triệu, Tề, Lương, Sở, Hoài Dương,
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Hiếu Cảnh Đế** (_chữ Hán_ 孝景帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Hán Hiếu Cảnh Đế, thường gọi tắt là Cảnh Đế * Hậu Thục Hiếu Cảnh
**Hán Nguyên Đế** (_chữ Hán_:漢元帝) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Hán Nguyên Đế Lưu Thích, gọi tắt theo thụy hiệu thật là Hiếu Nguyên Đế, vị Hoàng đế
**Ngô Cảnh Đế** (_chữ Hán_:吳景帝) có thể là: ## Danh sách *Ngô Cảnh Đế Tôn Hưu, Hoàng đế nước Ngô thời Tam Quốc *Ngô Cảnh Đế Dương Ác, quân chủ nước Ngô thời Ngũ đại
**Văn Cảnh Đế** (chữ Hán: 文景帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Ngụy Văn Cảnh Đế (truy tôn) * Hậu Đường Văn Cảnh Đế (truy tôn)
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
**_Đông Quán Hán ký_** (chữ Hán: 东观汉记), người đời Hán gọi là _Đông Quán ký_, là bộ sách theo thể kỷ truyện ghi lại lịch sử đời Đông Hán, từ thời Hán Quang Vũ Đế