✨Hán Vũ Đế

Hán Vũ Đế

Hán Vũ Đế (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật Lưu Triệt (劉徹), biểu tự Thông (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Ông là con trai thứ 11 của Hán Cảnh Đế, hoàng đế Tây Hán thứ sáu. Khi mới 7 tuổi, Lưu Triệt giành được ngôi Thái tử của huynh trưởng của mình là Lưu Vinh. Năm 141 TCN, sau cái chết của cha, ông kế vị Hoàng đế lúc 16 tuổi và cai trị từ năm 140 TCN đến 87 TCN (54 năm), là vị hoàng đế trị vì lâu nhất trong Lịch sử nhà Hán và cả lịch sử Trung Quốc từ sau đời Tần Chiêu Tương vương đến trước đời Khang Hi.

Ông được đánh giá là một hoàng đế tài ba (Hán Vũ thời đại), đã làm nhiều việc củng cố nền cai trị và mở cửa ra bên ngoài. Dưới thời trị vì của ông, nhà Hán đã phát triển lớn về chính trị và quân đội, tiến hành các cuộc xâm lược vào Vệ Mãn Triều Tiên, Dạ Lang, Hung Nô, Nam Việt, Mân Việt, Đông Âu; kết thân và thiết lập quan hệ với các nước ở phía tây, mở rộng lãnh thổ phía đông đến bán đảo Triều Tiên, phía bắc đến vùng sa mạc Gobi, phía nam tới miền Bắc Việt Nam và phía tây vươn ra tận Trung Á; ngoài ra ông còn chủ trương sử dụng Nho giáo làm tư tưởng trị nước, nhưng cũng tôn sùng Đạo giáo. Hán Vũ Đế cùng Tần Thủy Hoàng được đánh giá là những vị Hoàng đế vĩ đại bậc nhất trong giai đoạn đầu thời kỳ đế quốc tại Trung Quốc, được xưng tụng bằng cụm từ Tần Hoàng Hán Vũ (秦皇漢武).

Cuối đời, do tin vào thuật trường sinh bất lão, Hán Vũ Đế đã tiêu tốn rất nhiều vàng bạc để đi tìm thuốc trường sinh và tin dùng gian thần Giang Sung, dẫn đến vụ án Vu Cổ vào năm 91 TCN và cái chết của Thái tử Lưu Cứ, con trai trưởng của ông. Ông qua đời ở tuổi 69.

Do kiêng tên húy của Vũ Đế, các sách vở Trung Quốc thời đó phải chép chữ Triệt ra chữ Thông. Sau này một số sách vở dùng tư liệu của đời Hán soạn cũng chép tương tự. Tiểu sử của ông được ghi tại Hán thư, quyển 6 "Vũ Đế kỷ" và Sử ký, quyển 28 "Phong thiện thư".

Thiếu niên

Hán Vũ Đế Lưu Triệt là con trai thứ 11 của Hán Cảnh Đế, mẹ là Kế Hoàng hậu Vương Chí. Vương Chí nguyên được gả cho Kim Vương Tôn (金王孙) sinh một con gái là Kim Tục (金俗), sau tái giá với Hán Cảnh Đế được phong vị Mỹ nhân (美人), sinh được ba con gái là Bình Dương Công chúa, Nam Cung Công chúa và Long Lự Công Chúa. Sau đó, Vương Mỹ nhân sinh con trai út là hoàng tử Lưu Triệt.

Lưu Triệt được sinh vào ngày 31 tháng 7, năm 156 TCN. Tương truyền, khi mang thai Lưu Triệt, Vương Mỹ nhân đã nằm mộng thấy mặt trời rơi vào bụng mình, bèn nói lại với Cảnh Đế. Cảnh Đế cho rằng đứa bé đó về sau sẽ phú quý. Do có thân phận hoàng tử nên Lưu Triệt được phong tước vị Giao Đông vương (膠東王) vào năm 153 TCN

Theo Hán Vũ cố sự (漢武故事), quyển tiểu thuyết viết về Hán Vũ Đế thì lúc mới sinh ông được đặt tên là Lưu Trệ (劉彘), sau khi làm Giao Đông vương mới đổi lại là Lưu Triệt. Tuy nhiên, các bộ sử chính thống như Sử ký, Hán thư và Tư trị thông giám đều không công nhận điều này, mà cho rằng Hán Vũ Đế có một tên duy nhất là Lưu Triệt.

Năm 155 TCN, Hoàng hậu đầu tiên của Cảnh Đế là Bạc thị, không sinh được con nên thất sủng và bị phế. Hậu vị vì thế mà bỏ trống. Lịch Cơ (栗姬), phi tần được sủng ái nhất đã sinh hoàng trưởng tử là Lưu Vinh (劉榮) cho Cảnh Đế nên Lưu Vinh được phong Hoàng thái tử.

Quán Đào công chúa (館陶公主), chị của Cảnh Đế và là cô của Lưu Triệt có con gái tên Trần A Kiều (陈娇), muốn hứa hôn với Lưu Vinh để làm Thái tử phi, sau trở thành Hoàng hậu đại Hán nhưng bị Lịch Cơ khước từ vì hận Quán Đào thường xuyên tiến cử mĩ nữ cho Hán Cảnh Đế. Vương Mỹ nhân thấy vậy bèn tìm cách lấy lòng Quán Đào, hứa sẽ cho Lưu Triệt (năm đó 6 tuổi) thành thân với Trần A Kiều nếu ông được lập làm Thái tử. Ông lập Trần A Kiều làm Hoàng hậu, tôn mẹ là Vương hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, và bà nội Đậu Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu.

Cai trị

Chính sách đối nội

Củng cố nền quân chủ chuyên chế

Khác với vua cha, ông là người chuyên chế, nóng nảy, nhưng cùng rất nhiều mưu lược tài năng, rất sùng đạo Nho, không theo chính sách vô vi (ít can thiệp vào việc dân) của đạo Lão, như vua đời trước, mà ưa Pháp gia giống như Tần Thủy Hoàng và Hán Cao Tổ.

Thấy đời vua cha, nhóm thất vương làm phản, Vũ Đế quyết tâm bỏ hẳn chế độ phong kiến. Một mặt ông dùng thuật của Pháp gia, đồng thời để trị chư hầu quý tộc (sai người thân tín giúp việc họ do thám họ, ngăn chặn sự mưu phản và lần lần tước hết quyền hành, đất đai họ).

Muốn diệt họa Hung Nô và mở mang bờ cõi thì quân đội phải mạnh, quân luật phải nghiêm, và ông dùng chính sách của Pháp gia. Vũ Đế không tha thứ cho những viên tướng bại trận, không xét hoàn cảnh và tình thế của họ, cứ thẳng tay trừng trị. Vì vậy, có nhiều tướng bại trận phải theo hàng giặc chứ không dám về triều đình. Thấy vậy, Vũ Đế lại càng tàn nhẫn, tru di tam tộc những tướng này, như trường hợp của Lý Lăng. Không ai dám trái ý ông, chỉ tỏ vẻ bất mãn, bất phục cũng đủ làm cho ông trị tội rồi. Vì vậy, triều thần không ai dám can gián. Tư Mã Thiên chỉ vì bênh vực Lý Lăng mà phải chịu tội nhục nhã nhất thời đó: tội bị thiến.. Theo như lệnh này, khi một chư hầu vương chết đi thì người con trai trưởng sẽ được thế tập tước vương, còn những người con trai khác cũng được phong tước hầu ở ngay trong lãnh thổ của chư hầu đó. Trên thực tế, các hầu quốc được phong không còn do vị chư hầu vương kia quản lý nữa mà sẽ được nhập vào các quận trực thuộc triều đình, cũng tương đương như một huyện. Từ đời này sang đời khác, đất đai của chư hầu vì thế cũng sẽ ngày một giảm đi, đến nỗi chư hầu vương nhiều lắm chỉ có mười thành, tiểu hầu quốc chỉ được chừng 10 dặm. Bởi vậy các cuộc nổi dậy của chư hầu không còn đáng ngại như trước nữa, điển hình như cuộc nổi dậy của Hoài Nam vương Lưu An năm 112 TCN nhanh chóng bị dập tắt.

Tôn nho thượng pháp

Khác với Văn Đế và Cảnh Đế, Hán Vũ Đế lại chủ trương tôn sùng Nho giáo chứ không phải là Đạo Giáo. Ngay sau khi lên ngôi, Hán Vũ Đế nghe theo ý kiến của Đổng Trọng Thư, chủ trương bãi truất Bách gia, độc tôn nho thuật. Vũ Đế quyết định rằng Đạo giáo không còn thích hợp cho Trung Quốc nữa, và chính thức tuyên bố Trung Quốc là một quốc gia Khổng giáo; tuy nhiên, giống như các vị vua trước đó, ông tổng hợp các biện pháp của Pháp gia với ý tưởng Khổng giáo. Sự công nhận chính thức đối với Khổng giáo này dẫn tới một hệ thống bổ nhiệm quan chức dân sự duy nhất, nhưng các ứng cử viên cũng bắt buộc phải thông hiểu các tác phẩm kinh điển của Khổng giáo (Tứ thư, Ngũ kinh) đối với hệ thống quan lại của đế quốc, yêu cầu này kéo dài tới tận khi nước Cộng hoà Trung Hoa được thành lập năm 1911. Các trí thức Khổng giáo có được ưu thế nổi bật khi họ là hạt nhân của hệ thống bổ nhiệm quan chức dân sự.

Chính sách đối ngoại

Thiết lập quan hệ với Tây Vực

Trương Khiên đi sứ Tây Vực.

Vào thời cai trị của mình, Hán Vũ Đế chú trọng tới việc thiết lập quan hệ với Tây Vực. Sự việc ấy bắt đầu từ việc có tù binh Hung Nô khai rằng vua của nước Đại Nguyệt Chi bị Hung Nô chém đầu, dùng làm đồ đựng rượu. Triều đình tin lời ấy, muốn sai sứ đến Đại Nguyệt Chi đề nghị liên kết chống Hung Nô. Năm 138 TCN, Vũ đế cũng cử Trương Khiên dẫn đoàn sứ bộ đi về các vùng phía tây. Trong vòng mười mấy năm, Trương Khiên lần lượt sang các nước phía tây là Yên Kì, Quy Từ, Sơ Lặc, Đại Uyển và Đại Nguyệt Chi. Mặc dù việc liên kết ban đầu không thành công nhưng cũng đã nắm được tình hình ở Tây Vực, do đó Vũ Đế coi trọng Trương Khiên, phong cho chức Thái trung đại phu.

Năm 119 TCN, Hán Vũ Đế lại cử Trương Khiên đi sứ Tây Vực lần thứ hai, qua nước Ô Tôn đề nghị liên minh, được đón tiếp nồng hậu. Con đường mà Trương Khiên tìm ra, chính là "con đương Tơ Lụa" nổi tiếng, các thương nhân Đông – Tây đi lại buôn bán, nên người Trung Quốc mới biết đến ngựa Hãn Huyết, bồ đào, mục túc, thạch lựu, hồ đào, hồ ma,... Công lao của ông được Sử ký ca ngợi là "tạc không" (nghĩa là mở mang đường lối cho thông suốt).

Chiến tranh với Hung Nô

Phá vỡ hòa bình

Từ thời Hán Cao Tổ, do lo sợ thế lực của Hung Nô đang cường thịnh ở phía bắc, nhà Hán quyết định sử dụng chính sách hòa thân, cống nộp của cải và gả con gái cho Hung Nô để lấy lòng. Đến thời Văn Cảnh, nhà Hán phát triển lớn mạnh về chính trị, kinh tế và quân đội do đó Hán Vũ Đế quyết định phế bỏ chính sách hòa thân với Hung Nô và bắt đầu tiến hành chiến tranh. Ông phái Lý Quảng trấn giữ quận Yêu Tái, củng cố phòng bị ở phía bắc. Ngoài ra, việc kết giao với Tây Vực cũng là một bước quan trọng trong việc tìm liên minh cùng chống Hung Nô.

Năm 134 TCN, Hung Nô cử sứ thần sang Hán đề nghị hòa thân. Hán Vũ Đế thương nghị việc này với quần thần và cuối cùng quyết định đồng ý hòa thân theo lời Hàn An Quốc.

Năm 133 TCN, theo ý kiến của đại thần Vương Khôi, Hán Vũ Đế quyết định sử dụng chính sách lợi dụng tài vật để dẫn dụ Hung Nô ra quân trước, sai Lý Quảng làm Phiêu kị tướng quân, Công Tôn Hạ làm Kinh Xa tướng quân, Hàn An Quốc làm Hộ quân dẫn 30 vạn quân mai phục ở sơn cốc gần khu vực Mã Ấp, và Vương Khôi làm Tương Đồn tướng quân cùng Thái trung đại phu Lý Tức dẫn 3 vạn quân từ Đại Quận ra dụ địch. Nội gián của quân Hán là Niếp Nhất khuyên Quân Thần thiền vu có thể đem thủ hạ giết các quan cai trị ở Mã Ấp và chiếm hết tài vật trong thành này. Quân Thần ham mê tiền tài, nghe lời dụ dỗ của Niếp Nhất bèn đích thân dẫn 10 vạn quân Vũ Châu rồi phái sứ giả đến mưu hại quan cai trị ở Mã Ấp. Tuy nhiên việc này sau bị bại lộ nên thất bại. Hán Vũ Đế tức giận bèn tống giam Vương Khôi, sau ép tự sát. Từ đó hai nước tuyệt giao với nhau, hòa thân chấm dứt.

Vượt Nhạn Môn quan

Lãnh thổ nhà Hán.

Năm 129 TCN, quân Hung Nô xâm lấn vào vùng Thượng Cốc của nhà Hán. Hán Vũ Đế bèn cử 4 vạn quân chia làm bốn đường, do Vệ Thanh, Công Tôn Hạ, Công Tôn Ngao và Lý Quảng chỉ huy ra chống, tuy nhiên rốt cục bị thiệt hại nặng nề và thất bại.

Sang năm 127 TCN, Hán Vũ Đế cử Vệ Thanh và Lý Tức ra Vân Trung, tiến thẳng đến vùng Phù Lý, đánh bại và tiêu diệt hai đạo quân Hung Nô do Bạch Dương Vương và Lâu Phiền Vương chỉ huy, chém và bắt sống hơn 1000 người, thu phục và sáp nhập vùng đất Hà Sáo của Hung Nô mà gần như không mất một binh sĩ nào, toàn quân khải hoàn trở về. Chiến thắng này đã góp phần giải quyết được mối đe dọa đối của Hung Nô với kinh đô Trường An. Tại vùng Hà Sáu, nhà Hán cho thiết lập quận Sóc Phương. Năm sau, Hán Vũ Đế lại sai Tô Kiến đem theo 10 vạn người tu bổ Trường Thành để ngăn chặn Hung Nô.

Năm 121 TCN, Hán Vũ Đế muốn thực hiện kế hoạch đánh chiếm khu vực Hà Tây của Hung Nô để làm bàn đạp tiến công lên phía bắc để đẩy quân Hung Nô ra khỏi Trung Nguyên. Ông cử Hoắc Khứ Bệnh đem quân lên phía bắc.

Giảng hòa, tái lập hòa bình

Sang năm 90 TCN, Lý Quảng Lợi lại đem quân chinh phạt vùng Ngũ Nguyên. Tuy nhiên cùng lúc ở kinh thành, Hán Vũ Đế nghi ngờ ông ta có âm mưu lập Xương Ấp vương làm thái tử nên bỏ ngục vợ ông ta. Lý Quảng Lợi mất tinh thần, nên không thể địch lại Hung Nô. Quân Hán thiệt hại nặng, thương vong hơn 10000 người. Tư trị thông giám cũng lên tiếng chê trách việc làm này của Hán Vũ Đế.

Sau thất bại này, Hán Vũ Đế đành phải hạ cố tạ tội với Hung Nô và bị Hung Nô ép phải cống nạp cho mình 10000 thạch mễ tửu, 5000 hộc lương thực.

Tiêu diệt Nam Việt

Đất Nam Việt nguyên trước thuộc nhà Tần, được chia làm ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Khi nhà Tần suy yếu, thủ lĩnh cát cứ ở đó là Triệu Đà nổi dậy lập ra nước Nam Việt. Khi nhà Hán thành lập thì Triệu Đà dâng cống xin quy phục, nhưng trong nước vẫn dùng đế hiệu và không hoàn toàn phụ thuộc vào Trung Quốc. Năm 112 TCN, Hán Vũ Đế cử sứ An Quốc Thiếu Quý sang Nam Việt dụ vua và thái hậu vào chầu. Trước kia, thái hậu từng thông dâm với An Quốc Thiếu Quý nên đồng ý với yêu cầu này. Tể tướng Lữ Gia bất bình, đem quân vào cung giết hại vua và thái hậu và sứ giả của Hán.

Sau đó Lữ Gia đem quân phá Hàn Thiên Thu. Hán Vũ Đế tức giận, sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xuất phát từ Quế Dương, Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc xuất phát từ Dự Chương, Qua Thuyền tướng quân Nghiêm xuất phát từ Linh Lăng, Hạ lại tướng quân Giáp đem quân xuống Thương Ngô, Trì Nghĩa hầu Quý đem quân Dạ Lang xuống sông Tường Kha, hội ở Phiên Ngung là kinh đô Nam Việt.

Mùa đông năm 111 TCN, Hán Vũ Đế lại cử Dương Bộc đem 9000 tinh binh hãm Tầm Hiệp, phá Thạch Môn lấy được thuyền thóc của quân Triệu, kéo luôn cả các thuyền ấy đi, đem mấy vạn người đợi Lộ Bác Đức. Bác Đức cùng Bộc hội quân tiến đến Phiên Ngung, đánh bại quân Triệu và phóng lửa đốt thành. Quân trong thành đầu hàng. Lữ Gia và vua Triệu bỏ chạy, bị bắt được giết chết. Các xứ ở Nam Việt đều xin hàng. Nhà Hán chiếm xong Nam Việt, lập ra bảy quận trên đất ấy và đất Dạ Lang.

Tiêu diệt Dạ Lang

Ở phía tây nam nhà Hán thời đó có tồn tại một quốc gia tên gọi là Dạ Lang, chiếm một phần tỉnh Quảng Tây và phần lớn tỉnh Quý Châu hiện nay. Nước Dạ Lang giáp quận Ba Thục và một mặt thì giáp hồ Động Đình, về phía tây giáp nước Điền của người Lô Lô miền Tây tỉnh Vân Nam bấy giờ, phía đông hồ Vân Nam, từng phồn thịnh hàng trăm năm trên cao nguyên Quý Châu. Theo Sử ký, trong các bộ tộc Tây Nam, Dạ Lang có thế lực hùng mạnh nhất, có 100 nghìn lực lượng tinh nhuệ, tàu bè của người Dạ Lang đi lại trên mặt sông, quanh cảnh hết sức tấp nập. Lúc đó Đại Hán thống trị phần lớn khu vực Trung Nguyên, Dạ Lang nằm trong miền núi xa xôi hẻo lánh.

Hán Vũ Đế muốn chinh phục vùng Dạ Lang để mở rộng lãnh thổ. Năm 136 TCN ông cử Đường Mông làm Lang trung tướng dẫn 1000 binh sĩ và mấy vạn dân đem theo lương thực và công cụ sản xuất xuất phát từ Ba quận vượt qua Phù Quan đến Dạ Lang. Đường Mông ban tặng của cải để vua Dạ Lang và phô trương uy thế khiến Dạ Lang khiếp sợ, cho phép Đường Mông đặt cơ quan quản lý ở đó và cử con trai Dạ Lang hầu làm Lệnh (tương đương huyện lệnh).

Năm 130 TCN Hán Vũ Đế ra lệnh đặt thành lập quận ở Dạ Lang và chọn Bậc đạo tây nam làm quận lỵ rồi phát động quân sĩ 2 quận Ba Thục tiến hành việc mở đường từ Bậc đạo thông đến sông Tường Kha. Người đất Thục là Tư Mã Tương Như lại dâng thư yêu cầu đặt quận huyện tại Cùng , Trách thuộc Tây Di. Tư Mã Tương Như được Vũ đế cử làm Trung lang tướng. Tư Mã Tương Như tuyên truyền với các thủ lĩnh dân tộc thiểu số tại địa phương được họ đồng ý cho nhà Hán đặt tại khu vực đó mười mấy huyện và 1 đô úy trực thuộc Thục quận.

Về sau, Hán Vũ Đế còn cho 8 hiệu úy chỉ huy các tội nhân tấn công Thả Lan giết chết mấy vạn người, đặt tại khu vực Nam Di này quận Tường Kha. Cuối cùng năm 111 TCN, Dạ Lang chính thức quy phục nhà Hán, Hán Vũ Đế lập ra quận Kiện Vi trên đất Dạ Lang cũ.

Xâm lược Cổ Triều Tiên

Dưới thời nhà Chu và nhà Hán, ở bán đảo Triều Tiên đã thành lập một quốc gia riêng, gọi là Vệ Thị Triều Tiên. Dưới thời trị vì của mình, Hán Vũ Đế cũng có ý định mở rộng lãnh thổ tới miền đất này. Năm 109 TCN, ông cử quân đánh Vệ Thị Triều Tiên và tiêu diệt được quốc gia này vào năm 108 TCN. Tại bán đảo Triều Tiên, nhà Hán cho thành lập bốn quận là Lạc Lãng, Chân Phiên, Lâm Đồn và Huyền Thổ.

Hậu cung và những năm cuối đời

Thay ngôi Hoàng hậu

Hán Vũ Đế đăng cơ, lập con gái của người cô Quán Đào công chúa là Trần thị làm Hoàng hậu. Thời gian đầu sủng ái vì bà là nguyên phối từ khi còn chưa trưởng thành, nhưng phần lớn vì cả nể mẹ bà, Quán Đào công chúa đã có ơn đưa Vũ Đế lên ngôi Thái tử. Về sau Trần Hoàng hậu không có con, thường hay đố kị phi tần nên tình cảm Đế-Hậu ngày càng phai nhạt. Năm 139 TCN, trong dịp tới thăm phủ Bình Dương công chúa, Vũ Đế gặp được nhạc kỹ tên Vệ Tử Phu, hết mực sủng ái, đưa về cung lập làm Phu nhân, từ đó không ngó ngàng đến Trần hoàng hậu. Vệ Phu nhân lần lượt sinh 3 công chúa nên đắc sủng nhất hậu cung, Vũ Đế còn trọng dụng nhiều người trong gia tộc họ Vệ khiến Trần hậu tức giận. Để đối phó, Trần Hoàng hậu bỏ nhiều tiền để tìm phương thuốc có con, còn gọi người đồng cốt là Sở Phục (楚服) vào cung để sử dụng tà thuật, đồng thời lại có hành vi bất chính với nhau (lời đồn rằng là quan hệ đồng tính luyến ái nữ).

Năm 130 TCN, chuyện Trần hậu và Sở Phục bị phát giác. Vũ Đế lập tức định tội bà, giao cho Trương Thang điều tra. Cuối cùng, Trần Hoàng hậu bị giam vào Trường Môn cung, còn Sở Phục và hơn 300 người bị xử tử. Sau đó Hán Vũ Đế lập Vệ phu nhân lên làm Hoàng hậu. Những thành viên trong nhà Vệ Hoàng hậu cũng được vinh sủng như Vệ Trường Quân, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh..., trở thành một thế lực ngoại thích trong triều.

Tìm thuốc trường sinh

Cuối đời, Hán Vũ Đế sa vào hưởng lạc, xây cất nhiều cung điện và tin vào chuyện mê tín. Ông có cố gắng tìm thuốc tiên để trường sinh bất lão. Ông gả con gái cho phương sĩ Dịch Đại, phong làm tướng quân và tước hầu, giao cho 10 vạn cân vàng để tìm thuốc tiên. Vì Dịch Đại tìm mãi không ra thuốc tiên nên bị Vũ Đế giết chết.

Thay ngôi Thái tử

Năm Chính Hòa nguyên niên (92 TCN), Vu cổ chi họa (巫蠱之禍) trứ danh trong lịch sử nhà Hán xảy ra. Khi đó, vợ của thừa tướng Công Tôn Hạ (公孫賀) sử dụng thuật vu cổ bị phát giác, cả nhà Công Tôn bị giết hại. Ngoài ra, những thành viên trong thân tộc họ Lưu cũng bị liên lụy, trong đó có Dương Thạch công chúa (陽石公主) và Chư Ấp công chúa (诸邑公主) là con gái của Vệ hoàng hậu. Hán Vũ Đế sau đó quyết định mở rộng việc điều tra, giao việc này cho sủng thần Giang Sung và Án Đạo hầu Hàn Thuyết (韓說), vì trước đó Giang Sung nói có cổ khí ở trong cung. Giang Sung vốn có hiềm khích với Thái tử Lưu Cứ, nên muốn nhân việc này giá họa cho Thái tử.

Tháng 7 năm 91 TCN, Giang Sung tìm đến cung của Vệ hoàng hậu và Lưu Cứ, rao lên rằng có bùa yểm. Thái tử sợ Giang Sung hại mẹ con mình, bèn nghe theo lời Thái phó Thạch Đức (石德), giả lệnh bắt Sung và mang quân chiếm cứ các vị trí trọng yếu trong kinh thành Tràng An. Hán Vũ Đế đang dưỡng bệnh ở Cam Tuyền cung (甘泉宫), nghe tin Thái tử làm loạn bèn sai thừa tướng Lưu Khuất Li (劉屈氂) đem quân bắt Thái tử, đồng thời sai Tông chính Lưu Trường Lạc (劉長樂) và Chấp kim ngô Lưu Cảm Phụng (劉敢奉) đến Tiêu Phòng điện tịch thu tỉ thụ của Vệ hoàng hậu, khiến bà vừa thẹn vừa giận nên đã tự tử. Thái tử Lưu Cứ thua cuộc, nghe tin mẹ chết nên tự vẫn theo. Không lâu sau, thừa tướng Lưu Khuất Li cũng bị cho là dính dáng tới vụ yểm bùa nên bị giết.

Cuối cùng, Hán Vũ Đế tỉnh ngộ ra rằng những vụ yểm bùa phần nhiều do Giang Sung bày đặt ra, nên bắt giết cả nhà Giang Sung. Vì ân hận và thương nhớ Thái tử, Hán Vũ Đế cho xây Tư tử cung (思子宮; nhớ con).

Sau cái chết của Thái tử Lưu Cứ, người con thứ của Vũ Đế là Yên vương Lưu Đán dâng thư xin vào cung làm Túc vệ. Hán Vũ Đế biết ý đồ của Lưu Đán nên từ đó không tin tưởng đứa con này nữa.

Qua đời

Sau Án Vu cổ, Hán Vũ Đế lập con trai út Lưu Phất Lăng làm Thái tử, đồng thời bắt mẹ của Phất Lăng là Câu Dặc phu nhân Triệu thị phải chết, vì lo sợ Phất Lăng còn nhỏ thì bà ta sẽ thành Thái hậu, vượt quá bổn phận. Vũ Đế có ý định giao con trai cho Hoắc Quang sau khi mình qua đời. Năm 88 TCN, ông sai họa sư làm bức vẽ "Chu công bối Thành Vương triều chư hầu đồ" (周公背成王朝诸侯图), trao cho Hoắc Quang với ý định nhờ ông ta phụ tá cho Phất Lăng.

Năm 87 TCN, tháng hai, Hán Vũ Đế lâm bệnh nặng. Trước lúc chết, ông hạ chiếu phó thác việc nước cho các trọng thần: Hoắc Quang làm Đại tư mã, Đại tướng quân Kim Nhật Đê làm Xa Kị tướng quân, thái phó Thượng Quan Kiệt (上官桀) làm Tả tướng quân, đô úy Tang Hoằng Dương làm Ngự sử đại phu, tôn sùng nho giáo...

Theo Sử Trung Quốc (1997) của Nguyễn Hiến Lê, triều đại ông được xem là triều đại rực rỡ nhất của nhà Hán: uy quyền được củng cố, trong nước bình trị, bờ cõi được mở rộng, thương mại thịnh vượng nhờ khuếch trương, giao thiệp với các lân bang (nhất là Tây Vực) và văn học cũng phát triển., Lý Quảng Lợi...

Về chính sách kinh tế của ông, trong sách La civilisation Chinoise (Albin Michael, 1948), có lời nhận định:

Trong điện ảnh

Hán Vũ Đế, một trong những vị hoàng đế nổi bật nhất của Trung Quốc, xuất hiện trong rất nhiều bộ phim Trung Quốc, điển hình như:

  • Hán Vũ Đại Đế
  • Đại Hán Thiên tử
  • Đại Hán hiền hậu Vệ Tử Phu

Gia đình

  • Thân phụ: Hán Cảnh Đế Lưu Khải.

  • Thân mẫu: Hiếu Cảnh Vương Hoàng hậu (孝景王皇后, 174 TCN - 125 TCN).

  • Hậu phi:

    Hiếu Vũ Trần hoàng hậu (孝武陳皇后), biểu danh Trần A Kiều (陳阿嬌), mẹ là Quán Đào công chúa, ông bà ngoại là Hán Văn Đế và Đậu Thái hoàng thái hậu. Bà là nguyên phối của Vũ Đế. Năm 130 TCN bị phế, đày vào Trường Môn cung, không rõ kết cục.

    Hiếu Vũ Tư hoàng hậu (孝武思皇后, ? - 91 TCN), biểu danh Vệ Tử Phu (衛子夫), nổi tiếng xinh đẹp hiền đức, là thê tử được Vũ Đế tin yêu. Sinh thái tử Lưu Cứ và 3 công chúa, về sau bà cùng thái tử và 2 vị công chúa bị hàm oan nên tự vẫn. Là Hoàng hậu tại vị lâu nhất lịch sử thời Hán.

    Hiếu Vũ Lý hoàng hậu (孝武李皇后), thông danh Lý phu nhân (李夫人), tuyệt sắc giai nhân, được Hán Vũ Đế sủng ái nhất. Mất khi còn trẻ, truy phong Hiếu Vũ hoàng hậu và được hợp táng cùng Hán Vũ Đế. Bà là sinh mẫu của Xương Ấp Ai vương Lưu Bác.

    Lý cơ (李姬). Sinh ra 3 người con là Ngạc Ấp Cái Trưởng công chúa, Yên Thích vương Lưu Đán, Quảng Lăng Lệ vương Lưu Tư.

    Triệu tiệp dư (趙婕妤, 113 TCN - 88 TCN), hưu xưng Câu Dặc phu nhân (钩弋夫人), sủng phi của Hán Vũ Đế, tư sắc diễm lệ, xưng làm Đại mỹ nhân, trẻ tuổi và ngây thơ. Hán Vũ Đế lâm chung, muốn truyền ngôi cho con trai bà là Lưu Phất Lăng, nhưng do sợ Tử ấu mẫu tráng (子幼母壮), bèn ra lệnh xử tử.

    Vương phu nhân (王夫人), người nước Triệu, rất được sủng ái, mất khoảng năm 117 TCN. Bà là sinh mẫu của Tề Hoài vương Lưu Hoành.

    Doãn phu nhân (尹夫人).

    Hình phu nhân (邢夫人).

  • Hoàng tử:

    Lệ thái tử Lưu Cứ (劉據, 128 TCN – 91 TCN), mẹ là Vệ hoàng hậu, ông nội của Hán Tuyên Đế, bị buộc tự sát năm 91 TCN.

    Tề Hoài vương Lưu Hoành (齊懷王劉閎, ? – 109 TCN), mẹ Vương phu nhân.

    Yên Thích vương Lưu Đán (燕刺王劉旦, ? - 80 TCN), bị buộc tự sát, mẹ Lý cơ.

    Xương Ấp Ai vương Lưu Bác (昌邑哀王劉髆, ? - 86 TCN), cha của Xương Ấp vương Lưu Hạ, mẹ là Lý phu nhân.

    Quảng Lăng Lệ vương Lưu Tư (廣陵厲王劉胥, ? - 53 TCN), bị buộc tự sát, mẹ Lý Cơ.

    Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng (劉弗陵), mẹ là Triệu tiệp dư.

  • Hoàng nữ:

    Vệ Trưởng công chúa (衛長公主), còn gọi là Đương Lợi công chúa (当利公主), mẹ Vệ hoàng hậu. Hạ giá với Tào Tương (曹襄) - con trai của Bình Dương công chúa với chồng quá cố. Sau khi Tào Tương chết, tái giá Loan Đại (欒大).

    Chư Ấp công chúa (諸邑公主, ? - 91 TCN), bị buộc tự sát, mẹ Vệ hoàng hậu.

    Thạch Ấp công chúa (石邑公主, ? - 91 TCN), bị buộc tự sát, , mẹ Vệ hoàng hậu.

    Ngạc Ấp Cái Trưởng công chúa (鄂邑蓋長公主, ? - 80 TCN), mẹ Lý cơ, nuôi dưỡng Hán Chiêu Đế. Cùng Yến vương Lưu Đán, Thượng Quan Kiệt (上官桀), Thượng Quan An (上官安) hợp mưu Lịch đổ Hoắc Quang (霍光) nhưng bị phát hiện, tự sát.

    Di An công chúa (夷安公主), mẹ không rõ. Hạ giá lấy con trai của Long Lự công chúa, em gái của Vũ Đế, là Chiêu Bình quân (昭平君).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hiếu Vũ Lý hoàng hậu** (chữ Hán: 孝武李皇后), thường gọi **Lý phu nhân** (李夫人), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhà Tây Hán. Bà nổi tiếng ca
**Hiếu Vũ Triệu Tiệp dư** (chữ Hán: 孝武趙婕妤; 113 TCN - 88 TCN), thường gọi **Câu Dặc phu nhân** (钩弋夫人), Hán thư gọi là **Hiếu Vũ Câu Dặc Triệu Tiệp dư** (孝武鉤弋趙婕妤), là một phi
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**_Động minh ký_** (chữ Hán: 洞冥記) tên đầy đủ là **_Hán Vũ Động minh ký_** (漢武洞冥記) gồm bốn quyển do Quách Hiến đời Hậu Hán soạn. Có thuyết nói Quách Phác soạn _Động minh ký_.
**Hán Chương Đế Tống quý nhân** (chữ Hán: 漢章帝宋貴人, ? - 82), thụy hiệu **Kính Ẩn hoàng hậu** (敬隱皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát. Bà sinh ra Thanh Hà Hiếu vương
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong
**Vũ Đế** (chữ Hán: 武帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ có tài năng về quân sự trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách # Tây Hán Nam Việt
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hán Chương Đế Lương quý nhân** (chữ Hán: 汉章帝梁貴人, 61 - 83), thụy hiệu **Cung Hoài Hoàng hậu** (恭懷皇后), là phi tần của Hán Chương Đế Lưu Đát và là thân mẫu của Hán Hòa
**Hán Chương Đế** (chữ Hán: 漢章帝; 56 – 9 tháng 4 năm 88), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Đông Hán, và là Hoàng đế thứ 18 của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Huệ Đế** (chữ Hán: 漢惠帝, 210 TCN – 26 tháng 9, 188 TCN), tên thật **Lưu Doanh** (劉盈), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Giả quý nhân** (chữ Hán: 贾贵人; ? - ?) là một phi tần của Hán Minh Đế Lưu Trang, hoàng đế thứ hai nhà Đông Hán và sinh mẫu của Hán Chương Đế Lưu Đát,
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 孝武帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Tây Hán Hiếu Vũ Đế (thường được gọi tắt là Hán Vũ Đế) * Đông Tấn
**Hán Vũ cố sự** (chữ Hán: 漢武故事, bính âm: Hàn wǔ gùshì) hay **Hán Vũ Đế cố sự** (chữ Hán: 漢武帝故事, bính âm: hàn wǔdì gùshì), đa phần nội dung của cuốn sách này cùng
thumb|right|Tranh Đề Oanh chép trong _Vãn Tiếu Đường Trúc Trang Họa Truyền_ **Thuần Vu Đề Oanh** (chữ Hán: 淳于緹縈, ? - ?), người Lâm Truy thời Tây Hán, là con gái của danh y Thuần
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
**Hán An Đế** (chữ Hán: 漢安帝; 94 – 30 tháng 4, 125), tên thật là **Lưu Hỗ** (劉祜), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Đông Hán, cũng là vị hoàng đế thứ 21
**Hiến Mục Tào hoàng hậu** (chữ Hán: 獻穆曹皇后; ? - 2 tháng 7, 260), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hiến Đế - vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán trong lịch sử
**Hán Bình Đế** (chữ Hán: 漢平帝; 9 TCN – 6), tên thật là **Lưu Khản** (劉衎) hay **Lưu Diễn**, là vị Hoàng đế thứ 14 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Hán An Đế cung nhân Lý thị** (chữ Hán: 漢安帝宮人李氏; ? - 115), thụy **Cung Mẫn hoàng hậu** (恭愍皇后), là một phi tần của Hán An Đế Lưu Hỗ, sinh mẫu của Hán Thuận Đế
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Triệu Vũ Đế** (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy **Triệu Đà** (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt và nhà Triệu, án ngữ tại
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà