Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là Cung Thành Thái hậu (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Dù được lập làm Hoàng hậu, Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu không được Hán Tuyên Đế sủng hạnh, và cũng không như nhiều Hoàng thái hậu khác của Tây Hán, bà không dựa vào vị trí ngoại thích của dòng họ mình để tác động chính trị, an bình ở trong nội cung. Trước sự mưu toan của nhà họ Hoắc hòng đưa Hoắc Thành Quân lật đổ Hoàng hậu Hứa Bình Quân, Vương Hoàng hậu nuôi dưỡng con trai Hứa hậu là Hán Nguyên Đế Lưu Thích trưởng thành, nên Nguyên Đế tôn trọng bà.
Thân thế
Hiếu Tuyên hoàng hậu Vương thị, không rõ tên gì, người huyện Trường Lăng (nay là Vị Thành, Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây), nguyên là con gái của Cung Thành hầu Vương Phụng Quang (王奉光).
Tổ tiên của Vương thị do có công phò giúp Hán Cao Tổ, nên được phong làm Quan nội hầu (關內侯), dời từ Bái huyện sang Trường Lăng cư trú. Tước vị Quan nội hầu của dòng họ Vương được truyền đến đời Vương Phụng Quang. Vốn Phụng Quang thích chơi đá gà, thường gặp Hoàng tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ, cho nên quen biết. Đến tuổi cập kê, Vương thị được định hôn với một vài nhà quyền quý nhưng những người ấy lại chết vào ngày thành hôn, nên bà vẫn phải ở nhà.
Năm Nguyên Bình nguyên niên (74 TCN), Hoàng tằng tôn Lưu Bệnh Dĩ được đưa lên ngôi, tức Hán Tuyên Đế. Do có giao tình, Hán Tuyên Đế chọn Vương thị nhập cung, phong Tiệp dư.
Năm Bổn Thủy thứ 3 (71 TCN), Hoàng hậu Hứa Bình Quân của Hán Tuyên Đế bị vợ của Hoắc Quang là Hoắc Hiển hạ độc sát hại vì muốn đưa con gái là Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu. Hoắc Hoàng hậu cùng Hoắc phu nhân nhiều lần ám sát Thái tử Lưu Thích, con của Hứa hoàng hậu để dọn đường cho ngôi vị Thái tử.
Vô sủng lập Hậu
Năm Địa Tiết thứ 4 (66 TCN), Hán Tuyên Đế phế truất Hoắc Hoàng hậu, đồng thời tiêu diệt toàn bộ nhà họ Hoắc vì tội ám sát Hứa hoàng hậu và âm mưu tạo phản, cả dòng họ hơn 1000 người đều bị xử trảm, Hoắc Hoàng hậu bị giam vào lãnh cung. Do lo sợ nếu lập một vị Hoàng hậu có con sẽ ảnh hưởng đến địa vị của Thái tử nên Tuyên Đế quyết định lấy Vương Tiệp dư vốn không con làm Hoàng hậu và giao cho việc nuôi dạy Thái tử.
Năm Nguyên Khang thứ 2 (64 TCN), ngày 26 tháng 2 (âm lịch), Vương Tiệp dư được chính thức sách lập làm Hoàng hậu. Hán Tuyên Đế mệnh Hoàng hậu nhận Thái tử làm Dưỡng tử, chịu trách nhiệm nuôi dạy Thái tử. Tuy đã trở thành Hoàng hậu, song Vương thị vẫn bị Hán Tuyên Đế lạnh nhạt, tuy nhiên Tuyên Đế vẫn không để cho bà chịu thiệt thòi, bèn phong cha bà Vương Phụng Quang làm Cung Thành hầu (邛成侯), gia tộc họ Vương thừa huy ân sủng.
Đến tuổi trưởng thành, Thái tử Lưu Thích lấy Tư Mã thị, phong làm Lương đệ (良娣). Không lâu sau, Tư Mã Lương đệ ốm qua đời, Lưu Thích rất đau buồn. Hán Tuyên Đế lo lắng, bèn sai Vương hoàng hậu chọn ra một số cung nữ cho thái tử để an ủi. Vương hoàng hậu chọn ra 5 người mang đến trước mặt Tuyên Đế và Thái tử. Thái tử Thích đau buồn vì cái chết của Tư Mã thị, cũng không quan tâm đến họ, do đó đích thân Vương hoàng hậu lựa chọn thái tử phi. Do thấy Vương Chính Quân, con gái đình úy sử Vương Cấm mặc áo khác những người còn lại mà đứng gần thái tử nhất, nên Vương hoàng hậu sai Vương Chính Quân vào hầu Thái tử.
Vinh quang cả đời
Năm Hoàng Long nguyên niên (49 TCN), Hán Tuyên Đế băng hà, Thái tử Lưu Thích lên ngôi, tức Hán Nguyên Đế. Khi lên ngôi, Hoàng đế tôn Vương hoàng hậu làm Hoàng thái hậu. Năm Sơ Nguyên nguyên niên (48 TCN), phong anh trai Thái hậu là Thị trung Trung lang tướng Vương Thuấn (王舜) làm An Bình hầu (安平侯).
Năm Cảnh Ninh nguyên niên (33 TCN), tháng 5, Hán Nguyên Đế băng hà, Thái tử Lưu Ngao nối ngôi, tức Hán Thành Đế, Hoàng thái hậu Vương thị được tôn làm Thái hoàng thái hậu. Vương Thái hoàng thái hậu ít khi tham dự vào chính sự, cũng không được nhắc đến thường xuyên, bà sống an nhàn bình yên như một trưởng bối đức cao vọng trọng trong hậu cung Hán triều. Tuy không phải ruột thịt nhưng Hán Nguyên Đế vẫn rất kính trọng bà như mẹ đẻ, và Hán Thành Đế xem bà như tổ mẫu, vì thế luôn ban tước vị cho người trong họ của bà để hưởng vinh quang. Khi Thành Đế lên ngôi, em trai của Cung Thành Thái hậu là Vương Tuấn (王骏) được phong làm Quan nội hầu, thực ấp 1.000 hộ; Vương gia thế tộc Liệt hầu 2 người, Quan nội hầu 1 người. Con trai Vương Thuấn là Vương Chương (王章), cùng đường đệ Vương Hàm (王咸), đều làm đến Tả Hữu tướng quân. Đương thời đều gọi bà là Cung Thành Thái hậu (邛成太后) dựa trên tước phong của cha bà và cũng để phân biệt với Hoàng thái hậu Vương Chính Quân.
Năm Vĩnh Thủy nguyên niên (16 TCN), ngày 19 tháng 8 (âm lịch), Thái hoàng thái hậu Vương thị băng, thọ chừng 70 tuổi. Bà được hợp táng cùng với Hán Tuyên Đế ở Đỗ Lăng (杜陵), xưng là Đông viên (東園).
Từ khi vào cung, Vương thị làm Tiệp dư 10 năm, Hoàng hậu 15 năm, Hoàng thái hậu 16 năm và Thái hoàng thái hậu 17 năm, trải qua ba đời Đại Hán hoàng đế. Chính sự khiêm nhường không can chính của bà, đã khiến cuộc đời bà bình lặng, gia tộc hưng vượng tuy không quá hiển quý. Ban Cố khi viết Hán thư nhận định, từ đời Tây Hán khai quốc đến hết triều, ngoại thích ân phong rất nhiều, duy chỉ có nhà họ Bạc của Bạc Thái hậu, họ Đậu của Hiếu Văn Đậu hoàng hậu, họ Vương của Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu cùng họ Vương của Cung Thành Thái hậu là bảo toàn vinh hoa.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后, ?-563), không rõ tên thật, thụy hiệu: **Tuyên Tĩnh hoàng hậu** (宣靜皇后), là hoàng hậu của Lương Tuyên Đế (梁宣帝) Tiêu Sát (萧詧) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Minh Thành Hoàng hậu** (Hanja: 明成皇后, Hangul: 명성황후, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1851 – mất ngày 20 tháng 8 năm 1895, còn được biết đến với danh xưng là **Minh Thành Thái Hoàng
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞純皇后; ? - 20 tháng 3, 1518), còn gọi **Từ Thánh Thái hoàng thái hậu** (慈聖太皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Hiển Cung Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯恭皇后; 1084 - 1109), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là sinh mẫu của Tống Khâm Tông Triệu Hoàn.
nhỏ|Chiêu Hiến Hoàng hậu trong bộ lễ phục, ảnh chụp năm 1872 , hay , là Hoàng hậu của Đế quốc Nhật Bản, chính cung của Thiên hoàng Minh Trị. ## Thời thơ ấu Lúc
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
**Bắc Chu Tuyên Đế** (chữ Hán: 北周宣帝; 559 – 580), tên húy là **Vũ Văn Uân** (宇文贇), tên tự **Can Bá** (乾伯), là một hoàng đế của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh