Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay Thành Hiếu Trương Thái hậu (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ và là bà nội của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn cùng Minh Đại Tông Chu Kỳ Ngọc.
Bà là vị Hoàng thái hậu và Thái hoàng Thái hậu đầu tiên tại vị của triều đại nhà Minh. Tuy chưa từng công khai nhiếp chính, bà lại có sự ảnh hưởng lớn đến Minh Anh Tông trong việc chính sự mãi cho đến khi qua đời.
Thân thế
Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu mang họ Trương (張氏), người huyện Vĩnh Thành, Hà Nam. Phụ thân là Trương Kỳ (張麒), sau truy tặng Bành Thành bá (彭城伯), mẹ là Bành Thành bá phu nhân Đồng thị (仝氏), trong nhà bà có anh trai là Bành Thành bá Trương Sở (張昶) và Đô đốc Trương Thăng (張昇).
Năm Hồng Vũ thứ 29 (1396), Yên vương Chu Đệ lập Chu Cao Sí làm Vương Thế tử, Trương thị do có tư sắc mỹ lệ, được tuyển làm Vương Thế tử phi (王世子妃). Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), sau khi Yên vương Chu Đệ đăng cơ, Trương thị được phong Hoàng thái tử phi. Bà sinh được 3 Hoàng tử là: Chu Chiêm Cơ, Chu Chiêm Dung (朱瞻墉) và Chu Chiêm Thiện (朱瞻墡), một con gái là Gia Hưng công chúa (嘉兴公主).
Trương thị kính cẩn ôn nhu, phụng hiếu Minh Thành Tổ Chu Đệ và Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu Từ thị hết mực chu đáo, được 2 người quý mến. Thái tử Chu Cao Sí sinh thời không được lòng Thành Tổ, suýt bị phế truất mấy lần, do Cao Sí vốn tính quá ôn hòa nhân từ, Thành Tổ khi đó lại thích người em trai cùng mẹ ruột của Cao Sí là Hán vương Chu Cao Hú, muốn phế truất Thái tử. Từ Hoàng hậu và quần thần một phen hốt hoảng, ra sức can ngăn. Trong cung, Trương thị hạ sinh được Hoàng trưởng tôn Chu Chiêm Cơ học rộng, thông minh lễ độ, rất được Thành Tổ yêu quý, bèn giữ lại ngôi Thái tử.
Sau khi Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu Từ thị mất, bà được Minh Thành Tổ giao cho quản lý hậu cung nhà Minh mặc dù lúc đó bà vẫn đang còn là Thái tử phi.
Năm Vĩnh Lạc thứ 22 (1424), Minh Thành Tổ Chu Đệ băng hà, Thái tử Chu Cao Sí kế vị, tức Minh Nhân Tông, niên hiệu đổi là Hồng Hi (洪熙). Trương thị được sách lập làm Hoàng hậu, con trưởng Chu Chiêm Cơ làm Hoàng thái tử.
Hoàng thái hậu
Năm Hồng Hi nguyên niên (1425), Thái tử Chu Chiêm Cơ lên ngôi, tức Minh Tuyên Tông, niên hiệu đổi thành Tuyên Đức (宣德). Tôn vị Hoàng hậu Trương thị làm Hoàng thái hậu. Tuyên Tông đối với Trương Thái hậu hết sức hiếu thảo, có cống vật gì đều ưu tiên cho Thái hậu, cực kỳ cung phụng. Ngoài ra, bà cũng có ảnh hưởng với chính trị, phàm việc cơ mật, quân quốc đại sự, Tuyên Tông đều thỉnh Trương Thái hậu hỏi ý. Thái hậu đối với ngoại thích rất nghiêm, em trai bà là Trương Thăng tuy hầu thuận tỉ mỉ, nhưng Thái hậu vẫn không dùng vào việc chính sự.
Năm Tuyên Đức thứ 3 (1428), Trương Thái hậu ngự giá Tây uyển, có Hoàng hậu và phi tần bồi hầu, Tuyên Tông cũng tự bồi giá Thái hậu lên Vạn Tuế sơn, hơn nữa phụng rượu mừng thọ, rồi đến Nhị lăng bái yết, ban yến công đức. Tuyên Tông thân mang cung tên, cưỡi ngựa đi trước xa giá dẫn đường, thiên hạ bá tánh đều trông thấy, rạng rỡ hân hoan. Trương Thái hậu nhìn thấy khung cảnh này, xúc động mà nói: ["Bá tánh ủng hộ quân chủ, là bởi vì quân chủ có thể khiến cho họ an cư lạc nghiệp, Hoàng đế hãy nhớ kỹ trong lòng"]. Trên đường hồi kinh, có đi ngang qua một nông gia, Trương Thái hậu dừng lại hỏi một cặp phu phụ cuộc sống thế nào, rồi ban thưởng lụa tiền. Các đại thần gồm Anh Quốc công Trương Phụ, Thượng thư Kiển Nghĩa (蹇义), Đại học sĩ Dương Sĩ Kỳ (杨士奇) hơn 6 người đến trước điện thỉnh an, Trương Thái hậu úy lạo nói: ["Các khanh đều là tiền triều cựu thần, phải gắng hết sức giúp Tự quân"]. Về sau, Tuyên Tông có triệu Dương Sĩ Kỳ vào nói: ["Thái hậu từ khi bái yết Nhị lăng trở về, nói rằng các khanh làm việc phi thường cần mẫn. Thái hậu nói Trương Phụ tuy là võ thần, nhưng thấu hiểu đại nghĩa. Kiển Nghĩa tính cần mẫn tỉ mỉ, nhưng chưa quyết đoán. Có khanh phi thường chính trực, lời nói thẳng thắng không kiêng kị, Hoàng khảo dẫu có lúc cao hứng, nhưng nghe theo lời khanh mà không hỏng đại sự"].
Thái hoàng Thái hậu
Năm Tuyên Đức thứ 10 (1435), Tuyên Tông băng hà khi chỉ mới 38 tuổi. Hoàng thái tử Chu Kỳ Trấn còn tuổi nhỏ, chưa đến 10 tuổi, trong cung liền có tin đồn rằng Trương Thái hậu sẽ lập Tương vương Chu Chiêm Thiện - con trai thứ của bà, làm Tân Hoàng đế.
Hoàng thái hậu ngay lập tức triệu quần thần đến cung Càn Thanh, chỉ vào Thái tử mà khóc nói: ["Đây chính là Tân Thiên tử a!"; 此新天子也。], triều thần hô van vạn tuế. Thái tử Chu Kỳ Trấn lúc đó mới 9 tuổi lên kế vị, tức Minh Anh Tông. Trương Thái hậu được tôn làm Thái hoàng Thái hậu, vị Thái hoàng Thái hậu đầu tiên của triều Minh. Vì Hoàng đế còn nhỏ tuổi, đại thần thỉnh cầu Thái hoàng Thái hậu thùy liêm thính chính, nhưng Thái hậu nói: ["Không cần phá hư tổ tông phương pháp. Chỉ cần hủy bỏ những sự vụ không khẩn, tập trung giáo dục Hoàng đế, còn những việc quốc sự sẽ giao các Phụ chính đại thần hiệp trợ"].
Trong thời gian này, Trương Thái hoàng Thái hậu tỏ ra là người uyên bác, nuôi dạy Anh Tông trưởng thành, quản lý chính sự. Bà còn ức chế ngoại thích, không cho các anh em dòng họ Trương được can dự triều chính, không xảy ra họa ngoại thích làm lũng đoạn triều đại, nhà Minh tiếp tục thời gian thịnh trị. Minh Anh Tông càng trưởng thành, ông càng sủng ái tin dùng thái giám Vương Chấn. Trương Thái hoàng Thái hậu rất không vui lòng. Một ngày, Thái hậu ngự biệt điện, Anh Tông đứng ở phía Tây, các đại thần Anh quốc công Trương Phụ, Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh, Dương Phổ đến, Thái hoàng Thái hậu ủy lạo nói:["Các khanh đều là lão thần, hiện giờ Hoàng đế tuổi nhỏ, hi vọng các khanh đồng tâm hiệp lực, giữ gìn quốc gia yên ổn"]. Bà lấy 5 vị đại thần này làm chính trị trung tâm. Sau đó, bà triệu Dương Phổ tiến lên, nói:["Nhân Tông Hoàng đế niệm khanh trung thành, nhiều lần phát ra thở dài, không nghĩ hôm nay còn có thể nhìn thấy ngươi"]. Dương Phổ cảm động mà rơi lệ, Thái hậu cũng rơi lệ, tả hữu người người cũng đều thực bi thương. Một lát sau, Vương Chấn được gọi tới, Thái hậu thay đổi sắc mặt, lạnh lùng nói:["Ngươi hầu hạ Hoàng đế không theo quy củ, hẳn là nên ban chết!"]. Vị nữ quan bên cạnh lập tức đem đao kề sát cổ Vương Chẩn, run rẩy không ngừng. Anh Tông cùng 5 vị đại thần xin tha, Thái hậu mới để yên. Thái hậu lập tức mắng:["Loại người các ngươi, từ xưa nhiều lần loạn quốc, Hoàng đế tuổi nhỏ, nào biết đâu rằng! Hiện nhân Hoàng đế cùng đại thần vì ngươi van xin hộ, ta bỏ qua cho ngươi lúc này, sau này tái phạm, nhất định trị tội không buông tha"].
Từ đó về sau, Thái hậu hay phái người đến Nội các dò hỏi, nếu biết Vương Chấn có ảnh hưởng đến Hoàng đế, bà liền sai người triệu hắn đến trách cứ. Do đó, khi Trương thị sinh thời, Vương Chấn không cách nào ảnh hưởng lên Anh Tông.
Năm Chính Thống thứ 7 (1442), ngày 18 tháng 10 (âm lịch), sau đại hôn của Minh Anh Tông và Tiền Hoàng hậu, Trương Thái hoàng Thái hậu bệnh nặng. Bà triệu Dương Sĩ Kỳ cùng Dương Phổ vào cung, lại sai Nội quan dò hỏi đại sự còn việc gì chưa hoàn thành, bà qua đời ngay khi Dương Sĩ Kỳ đang bẩm tấu, chỉ kịp để lại di huấn mong các đại thần phù trợ Anh Tông trở thành minh quân. Minh Anh Tông dâng thụy hiệu cho bà nội là Thành Hiếu Cung Túc Minh Đức Hoằng Nhân Thuận Thiên Chiêu Thánh Chiêu Hoàng hậu (誠孝恭肅明德弘仁順天昭聖昭皇后). Tháng 12 năm đó, kim quan của bà được an táng ở Hiến lăng (献陵), kế bên mộ phần của Minh Nhân Tông.
Hậu duệ
Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu Trương thị với Minh Nhân Tông Hồng Hi Hoàng đế có bốn người con; 3 Hoàng tử và 1 Hoàng nữ:
Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ [朱瞻基].
Hoàng tam tử Chu Chiêm Dung [朱瞻墉; 9 tháng 2, 1405 - 5 tháng 8, 1439], con trai thứ ba của Hồng Hi Đế. Năm 1424 tấn phong Việt vương (越王), lấy con gái của Ngô Thăng (吳昇) làm Vương phi, lập phủ đệ ở Cù Châu. Sau khi qua đời, thụy là Việt Tĩnh vương (越靖王), Ngô vương phi bị tuẫn táng. Không có hậu duệ.
Hoàng ngũ tử Chu Chiêm Thiện [朱瞻墡; 4 tháng 4, 1406 - 18 tháng 2, 1478], con trai thứ năm của Hồng Hi Đế. Năm 1424 tấn phong Tương vương (襄王). Ban đầu giữ đất ở Trường Sa, sau cải thành ở Tương Dương, Hồ Bắc. Ông trải qua 4 đời Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Đại Tông, nổi tiếng hiền minh, là một Tông thất nhân vật có tầm ảnh hưởng. Sau khi qua đời, thụy hiệu là Tương Hiến vương (襄宪王), có 11 người con trai.
Gia Hưng công chúa [嘉興公主; 1409 - 1439], Hoàng trưởng nữ công chúa. Năm 1428, hạ giá lấy Tỉnh Nguyên (井源).
Phim ảnh
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (_chữ Hán_:孝昭皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Hán Chiêu Đế Hiếu Chiêu
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Hiếu Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝章皇后, 952 - 995), còn gọi **Khai Bảo Hoàng hậu** (開寶皇后), là Hoàng hậu thứ 2 tại vị và là Chính thất thứ 3 của Tống Thái Tổ Triệu
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
**Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu** (chữ Hán: 元聖天感皇后, ? - tháng 1, 1287), tên **Thiều** (韶), là Hoàng hậu của Trần Thánh Tông, mẹ ruột của Trần Nhân Tông. ## Tiểu sử Nguyên Thánh
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Chiêu Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:昭皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ quân chủ ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Nam Tề Cao Đế Chiêu hoàng
**Hiếu Khang Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝康皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Minh Hưng Tông Hiếu Khang
**Hiếu Triết Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝哲皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Nguyễn Thái Tông chính
**Hiếu Trang Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝莊皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Anh Tông Hiếu Trang Hoàng Hậu
**Kính Hiếu Nghĩa Hoàng hậu** (chữ Hán: 敬孝義皇后; ? - 1650), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tên **Ba Đặc Mã** (巴特玛), dã sử thời Thanh mạt xưng gọi **Tiểu Ngọc Nhi** (小玉儿), là vợ
**Hiếu Tĩnh Hoàng Hậu** (chữ Hán: 孝靜皇后 / 孝靖皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. Có thể là một trong các vị
**Hiếu Trinh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝貞皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Hiến Tông đệ nhị nhiệm Hiếu
**Hiếu Huệ Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝惠皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tây Hán Hiếu Huệ Đế Hiếu Huệ
**Hiếu Từ Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝慈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Cao Đế Hiếu Từ hoàng hậu
**Hiếu Kính Hoàng hậu** (_chữ Hán_:孝敬皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Thần Tông thứ thất Hiếu Kính
**Hiếu Nguyên Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝元皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tây Hán Hiếu Nguyên Đế Hiếu Nguyên
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Thánh Nhân Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖仁皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Thanh Thánh Tổ đệ nhất nhiệm Thánh
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu