✨Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu

Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu

Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi Từ Thánh Tào Thái hậu (慈聖曹太后) hay Từ Thánh hậu (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Nhân Tông Triệu Trinh.

Tuy tại vị hoàng hậu hơn 28 năm nhưng bà không sinh cho Tống Nhân Tông bất kỳ người con nào. Bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính dưới thời Tống Anh Tông Triệu Thự và trở thành Thái hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống dưới thời Tống Thần Tông Triệu Húc, nắm hết quyền lực tối cao, trở thành vị Hậu cung xưng Chế thứ hai sau Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu. Thời Tống Thần Tông có trọng dụng Vương An Thạch và ["Biến pháp"; 變法], luận cải cách chính trị và cả quy chế tổ tông.

Trong lịch sử triều Tống, Tào hậu cùng cháu gái là Cao Thái hậu, sinh mẫu của Tống Thần Tông là những người đứng đầu phái phản đối với lập trường không thể tùy tiện thay đổi điển chế. Tuy nắm giữ quyền lực nhiếp chính, phạm vào đại kị của nữ giới (hậu cung không can chính), nhưng Tào hậu vẫn được xem như một ["Hiền hậu"] của triều Tống, cùng Cao hậu về sau được xưng tụng là bậc nữ lưu kiệt xuất.

Tiểu sử

trái|Cận chân dung Từ Thánh Quang Hiến Tào Hoàng hậu. Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu Tào thị, nguyên quán ở Linh Thọ, Chân Định (nay là huyện Linh Thọ, Hà Bắc). Bà xuất thân từ gia tộc hiển hách triều Tống, có Tổ phụ là danh tướng khai quốc công thần Tào Bân, nguyên nhậm Xu mật sứ, tặng Lỗ Vũ Huệ vương (鲁武惠王). Phụ thân Thượng thư Ngu bộ Viên ngoại lang tặng Ngô An Hi vương Tào Kỷ (曹玘), cưới Mã thị sinh ra Tào hậu, ngoài ra bà còn có một người anh em tên Tào Dật (曹佾). Từ nhỏ, Tào thị thông thạo sách vở, Tứ thư Ngũ kinh đều thuộc làu. Đặc biệt bà còn rất thành thạo một kiểu thư pháp thanh nhã là ["Phi Bạch thư"; 飛帛書].

Năm Minh Đạo thứ 2 (1033), Chương Hiến Lưu Thái hậu giá băng, Tống Nhân Tông bắt đầu tự mình chấp chính.

Cùng năm, Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông là Quách hoàng hậu bị phế, thiên cư tại Trường Ninh cung. Năm đó Tào thị 18 tuổi, được Chương Huệ Thái hậu nhìn trúng mà phụng chiếu nhập cung phối ngẫu với danh phận chính thất. Sang năm sau, tức Cảnh Hữu nguyên niên (1034), tháng 9, chính thức sách lập Tào thị làm Kế hậu. Tào hậu có mẫu nghi phong phạm lại đức hạnh hiền nhân, nhưng dung mạo bà không đặc biệt xuất chúng, khiến một người trọng mỹ nữ như Tống Nhân Tông không sủng ái. Tống Nhân Tông về sau chuyên sủng Trương Mỹ nhân, khiến Trương thị được đà lấn tới.

Phong độ mẫu nghi

Ninh Thọ cung biến

Năm Khánh Lịch thứ 8 (1048), tháng giêng, xảy ra Ninh Thọ cung sự biến (坤寧宮事變). Khi ấy Tống Nhân Tông đang chuẩn bị bày biện hoa đăng, gặp binh lính vệ từ đâu đến xông vào tẩm cung. Tào hậu đương phụng dưỡng Hoàng đế, nghe nói biến loạn, lập tức khuyên can Hoàng đế lánh đi. Sau, Tào hậu mệnh Đô tri Vương Thủ Trung (王守忠) mang binh vào cung bình loạn. Mãi sau, loạn binh đánh ụp trước cửa điện, chém giết Thái giám và cưỡng đoạt Cung nữ, Nhân Tông toan muốn ụp ra trước điện mấy lần, đều do Tào hậu cản lại. Loạn binh vây khốn suốt cả một đêm. Hễ khi Thái giám thụ lệnh ra điện truyền đạt thông tin, Tào hậu đều tự tay cắt một đoạn tóc của họ, nói:"Ngày mai luận công hành thưởng, hãy lấy tóc làm chứng!". Bởi vậy, mọi người đều tranh tiên xuất lực, loạn binh thực mau bị tiêu diệt.

Nhưng sự hi sinh và bản lĩnh của Tào hậu không được Nhân Tông tưởng thưởng. Khi ấy, Trương Mỹ nhân cũng vừa kịp đến cứu giá, lại lấy thân mình bảo vệ Hoàng đế khiến Nhân Tông cảm động. Sang ngày hôm sau, Nhân Tông ngự điện, đặc biệt khen thưởng Trương thị, đại thần là Hạ Tủng (夏竦) kiến nghị nên trọng thể thưởng cho Trương thị, nhưng Trương Phương Bình (张方平) bất đồng ý kiến, bèn nói lại với Trần Chấp Trung (陳執中) rằng:"Ngày xưa, Phùng Tiệp dư chắn gấu, cũng chưa từng nghe đặc thù khen thưởng. Hơn nữa đã có Hoàng hậu lại tôn sùng Quý phi, xưa nay không có đạo lý này. Nay ông tâu xin trọng thưởng Quý phi, tất thiên hạ sẽ dồn vào ông mà chỉ trích!". Trần Chấp Trung sợ hãi mà không tấu hùa theo. Tháng 10 năm ấy, Trương thị được Nhân Tông thăng vị làm Quý phi.

Về sau, Gián quan Vương Chí (王贄) là phe của Hạ Tủng hư hư thực thực sâng sớ, ngầm nói Tào hậu là chủ mưu thực sự của cung biến đêm ấy. Tuy nhiên, Ngự sử đài nhanh chóng dâng sớ phản bác, cho rằng việc này phát triển quái dị, đủ loại dấu hiệu biểu hiện có người muốn đem việc này dẫn đường ám hại Hoàng hậu, hòng câu kết đem lập Trương thị làm Hoàng hậu. Mặc dù sủng ái Trương thị, nhưng trước sự kiện này Nhân Tông cũng không đến mức u mê. Tào Hoàng hậu vì thế vẫn bảo toàn ngôi vị. Tuy vậy, trong lòng Nhân Tông vẫn có chút nghi kị với Tào hậu.

Khoảng năm Gia Hữu nguyên niên (1056), Nhân Tông bệnh nặng, thần trí không rõ, trong miệng thế nhưng hô to:"Hoàng hậu cùng Trương Mậu Tắc mưu việc đại nghịch!". Nội thị Trương Mậu Tắc (张茂则) vốn là Thái giám cũ trong cung, nghe Nhân Tông lẩm bẩm mà sợ tái xanh cả mặt, thiếu điều tự sát, may có người ngăn cản kịp thời. Tể tướng Văn Ngạn Bác (文彦博) khuyên:"Hoàng thượng có bệnh nên nói mê sảng thôi, ngươi hà tất phải làm ra cái bộ dạng này?! Ngươi mà chết, thì Hoàng hậu biết làm sao?". Trương Mậu Tắc nghe vậy, mặc dù rất sợ nhưng vẫn hầu hạ Nhân Tông như cũ. Riêng Tào hậu thì không thể tùy tiện ở trước mặt Nhân Tông thị phụng nữa.

Cẩn thận khoan dung

Tống Nhân Tông sủng ái Trương Quý phi, sau sự kiện Ninh Thọ cung. Trương thị thụ sủng, được không ít người trong cung nịnh bợ. Chứng kiến Trương Quý phi trở nên bá đạo, Tào hậu lại không hề mảy may so đo. Hằng ngày bà cùng phi tần trong cung điều phối quản lý lương thực, trồng dâu nuôi tằm mà không mấy khi tranh chấp với sủng phi Trương thị này. Chính vì vậy mà dù sủng ái Trương Quý phi, Nhân Tông vẫn tôn trọng Hoàng hậu.

Sau sự biến Ninh Thọ cung, một nội tỳ của Tào Hoàng hậu bị phát hiện tư thông với một lính vệ trong cơn binh loạn. Dù là người thân thiết, Tào hậu vẫn tuân thủ cung quy mà tiến hành xử tử. Cùng đường, vị nội tỳ đành chạy đến chỗ Trương Quý phi để cầu tình. Trương Quý phi nói lại với Nhân Tông nên Nhân Tông đặc biệt ân xá. Tào hậu biết được, mặc trang phục nghiêm chính đến tẩm điện của Nhân Tông, thỉnh cầu xử tội theo đúng quy chế đặt ra, còn nói:"Không như vậy, còn gì là luật pháp?!". Nhân Tông ban bà ngồi xuống, nhưng Tào hậu vẫn không ngồi, cứ đứng như vậy biểu thị chính kiến. Nhân Tông cuối cùng ban chết cho nội tỳ. Thấy Tào hậu luôn nhịn mình, Trương Quý phi càng không kiêng dè. Việc Trương Quý phi thịnh sủng đã đến tai triều thần, nhiều người đã dâng tấu chỉ trích, nhưng Nhân Tông vẫn bao che, điều này khiến Trương Quý phi không nể nang, thậm chí xem thường Hoàng hậu ra mặt. Có lần, Trương Quý phi muốn dùng nghi thức Hoàng hậu xuất cung, Nhân Tông vì Trương thị mà đến cung Hoàng hậu, vời cho Quý phi mượn dùng. Tào hậu vẫn không oán thán, vui vẻ đáp ứng. Điều này khiến Nhân Tông cảm thấy Hoàng hậu quá khoan từ, còn Trương thị thì ỷ sủng sinh kiêu, làm mất thể thống, nên quay về mắng Trương thị:"Quốc gia đều có pháp độ, có trật tự. Khanh dùng nghi thức Hoàng hậu xuất du, là xem thường kỷ cương". Trương Quý phi đành phải khép nép vâng lời.

Bấy giờ, Tào hậu không con, Trương Quý phi tuy được sủng hạnh nhưng không sinh được Hoàng tử. Cả ba Hoàng tử là Triệu Phưởng (趙昉), Triệu Hân (趙昕) và Triệu Hi (趙曦) đều chết non, Tống Nhân Tông vô tự trở thành chuyện đại sự. Tào hậu đã thuyết phục Nhân Tông chọn con trai thứ ba của Bộc An Ý vương Triệu Duẫn Nhượng là Triệu Tông Thực làm người kế vị. Đế-Hậu cho đón Tông Thực vào cung, khi đó chỉ mới 4 tuổi.

Năm Gia Hữu thứ 7 (1062), tháng 8, Triệu Tông Thực đã 31 tuổi, được lập làm Hoàng thái tử, ban danh là Triệu Thự (趙曙).

Thái Hoàng triều Tống

Triều đại Anh Tông

Năm Gia Hữu thứ 8 (1063), ngày 29 tháng 3 (tức ngày 30 tháng 4 dương lịch), Nhân Tông băng hà, Hoàng thái tử Triệu Thự kế vị, tức Tống Anh Tông. Tào Hoàng hậu do là Mẫu hậu của Anh Tông nên được tấn tôn trở thành Hoàng thái hậu.

Đương lúc đó Tống Anh Tông thường xuyên đau ốm, thỉnh Hoàng thái hậu「Quyền đồng xử phân Quân quốc sự; 權同處分軍國事」, Tào Thái hậu trở thành người nắm quyền nhiếp chính, tiến hành ["Thùy liêm thính chánh"; 垂簾聽政] ở Nội Đông môn Tiểu điện, theo lệ của Chương Hiến Lưu Thái hậu khi trước. Đại thần mỗi ngày có điều tấu không thể xử quyết, Tào Thái hậu liền nói:"Các ngài tự thương thảo đi!", chưa hề tự mình chủ trương bất kì điều gì. Bà chủ trương không dùng ngoại thích họ Tào, các đại thần trong triều, hễ người hầu có hành vi sai lầm, một chút ít cũng không châm chước. Do đó, cung đình chốn viện vào thời gian này rất nghiêm khắc tận tâm.

Năm Trị Bình nguyên niên (1064), mùa hè tháng 5 (ÂL), Anh Tông bệnh khởi sắc, Tào Thái hậu liền hạ lệnh ["Triệt liêm hoàn chính"; 撤簾還政], giao lại quốc sự cho Anh Tông. Chiếu thư có viết:「"Hoàng thái hậu xưng Thánh chỉ, Nghi vệ xuất nhập đều như lệ của Chương Hiến Thái hậu khi xưa"; 皇太后稱聖旨,出入儀衛如章獻太后故事。」, dâng cung điện là Từ Thọ cung (慈壽宮). Nhưng khi ấy Anh Tông cầm chiếu thư thật lâu không nhanh chóng thi hành, mãi đến mùa thu cùng năm mới chính thức chấp chính như cũ, lại gia phong cho em trai Tào hậu là Tào Bật hàm Đồng Trung thư môn hạ Bình chương sự (同中書門下平章事).

Triều đại Thần Tông

Năm Trị Bình thứ 4 (1067), ngày 25 tháng 1, Tống Anh Tông băng hà khi chỉ vừa 35 tuổi, Tống Thần Tông kế vị. Khi ấy, Tào Thái hậu trở thành Thái hoàng thái hậu, là vị Thái Hoàng đầu tiên của nhà Tống, xưng gọi [Tào Thái hoàng; 曹太皇]. Bà cư ngụ tại Khánh Thọ cung (慶壽宮).

Khi trị vì, Tống Thần Tông đối với Tào Thái hoàng cực kì tẫn hiếu, đi ra ngoài hay lên núi du ngoạn, mỗi khi đi thì đều ở phía trước đỡ tổ mẫu. Tuy vậy, bà vẫn chủ trương không cho triệu kiến nam duệ của họ Tào thường xuyên lui vào cung. Khi bà cao tuổi, Tào Dật cũng đã già, Thần Tông thỉnh thoảng muốn vời Dật vào cung thường xuyên gặp mặt, Tào Thái hoàng vẫn kiêng quyết không đồng tình. Ngày nọ, Dật theo hầu Thần Tông, ông lại thỉnh lên Tào Thái hoàng cho phép Tào Dật diện kiến, bà mới miễn cưỡng đồng ý. Nhưng khi nghe Dật còn dẫn mấy anh em họ trong nhà, Thái hoàng đóng cửa điện, không muốn gặp riêng.

Ban đầu, Tống Thần Tông rất trọng dụng Vương An Thạch và biến pháp của ông ta, muốn thực hiện cải cách biến đổi đất nước. Tào Thái hoàng cùng cháu gái là Cao Thái hậu, sinh mẫu của Tống Thần Tông lấy danh nghĩa ["Tổ tông pháp độ bất nghi khinh cải"; 祖宗法度不宜輕改] mà ra sức phản đối, đứng đầu nhóm bảo thủ chống lại biến pháp. Khoảng trong năm Hi Ninh (1068 - 1077), trước vài ngày diễn ra lễ viếng Thái Miếu, Thần Tông có ghé vấn an Tào Thái hoàng, bà nói:"Trước kia ta mỗi khi nghe nói dân chúng có cực khổ điều gì, nhất định phải nói cho Nhân Tông hoàng đế, Nhân Tông hoàng đế liền thi hành chính sách giảm thuế, hiện tại cũng hay là nên như vậy!". Thần Tông đáp:"Hiện tại không có chuyện gì". Thái hoàng nói:"Ta nghe nói dân chúng đối với Thanh Miêu pháp, Trợ Dịch pháp đều kêu khổ không ngừng, hai biện pháp này ắt nên đình chỉ. Vương An Thạch này tuy đúng là có tài học vấn, nhưng người oán hận ông ta quá nhiều. Hoàng đế muốn yêu quý hắn, thì cũng nên bảo toàn cho hắn, không bằng tạm thời phóng hắn đến ngoại tỉnh đi". Tống Thần Tông nghe đến mà giật mình, vốn dĩ muốn đình chỉ hai biện pháp vô ích này, nhưng bấy lâu vẫn thi hành do bị Vương An Thạch thao túng.

Sau đó, Thần Tông thường mỗi khi có quyết định quan trọng, tắc sẽ đến Khánh Thọ cung thương nghị, mọi lời nói đều tỉ mỉ tham khảo. Ngày ấy Tô Thức vì vụ án "Ô Thai thi án" (烏台詩案), vì viết một bài thơ mà bị hạ ngục, đương thời chắc mẩm rằng Tô Thức thế nào cũng chết. Tào Thái hoàng nghe thế, vội nói với Thần Tông:"Ta nhớ tới Nhân Tông hoàng đế ở Thi đình trông thấy hai anh em Tô Thức, bèn nói: [Ta vì con cháu mà chọn hai vị Tể tướng này!]. Nay nghe Thức vì sáng tác thơ mà hạ ngục, không phải là do kẻ thù vu tội đó sao? Trong tập thơ sưu tầm quả có câu sai, nhưng dù sao cũng chỉ là lỗi nhỏ. Nay ta đã rất yếu, không thể lại bởi vì oan uổng người tốt mà làm ảnh hưởng cảnh thái bình đương thời. Án của Tô Thức, Hoàng đế nên tỉ mỉ điều tra mới phải!". Thần Tông nước mắt chảy ròng, quỳ sụp tạ tội, Tô Thức như vậy mới có thể thoát án chết.

Qua đời

Năm Nguyên Phong thứ 2 (1079), mùa đông, ngày 20 tháng 10 (tức ngày 16 tháng 11 dương lịch), Thái hoàng thái hậu Tào thị bệnh nặng mà băng thệ, thọ 64 tuổi.

Sang năm (1080), tháng giêng, ngày Mậu Dần, dâng thụy hiệu là Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu (慈聖光獻皇后). Sang tháng 3, ngày Quý Dậu, quan tài của bà được an táng tại Vĩnh Chiêu lăng (永昭陵). Ngày Ất Dậu, thăng phụ thần chủ lên Thái Miếu. Gia đình họ Tào được cất nhắc lên.

Thụy pháp của bà, được giải thích theo Tống hội yếu tập cảo (宋會要輯稿): ⌈爱民好与曰慈,能以仁教曰慈;通达先知曰圣,穷理尽性曰圣;和宁百姓曰光,格于上下曰光;聪明睿智曰献,博闻多能曰献⌋ Ái dân hảo dữ viết Từ, Năng dĩ nhân giáo viết Từ; Thông đạt tiên tri viết Thánh, Cùng lý tẫn tính viết Thánh; Hòa ninh bách tính viết Quang, Cách vu thượng hạ viết Quang; Thông minh duệ trí viết Hiến, Bác văn đa năng viết Hiến

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Quang Hiến Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:光獻皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Hán Triệu Thái Tổ Quang Hiến hoàng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Hiển Cung Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯恭皇后; 1084 - 1109), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là sinh mẫu của Tống Khâm Tông Triệu Hoàn.
**Văn Hiến hoàng hậu** (chữ Hán: 文獻皇后, 544 - 10 tháng 9, 602), hay thường gọi **Độc Cô hoàng hậu** (獨孤皇后), là vị Hoàng hậu duy nhất dưới thời Tùy Văn Đế Dương Kiên, vị
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Quang Loan hoàng hậu** (chữ Hán: 光鸞皇后), không rõ năm sinh năm mất, là một hoàng hậu của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, chính cung của Trần Giản Hoàng, con gái
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝德顯皇后, ; 12 tháng 4 năm 1831 - 24 tháng 1 năm 1851), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế khi ông
**Trang Hiến Vương Thái hậu** (chữ Hán: 莊憲王太后, 763 – 5 tháng 4, 816), cũng gọi **Trang Hiến hoàng hậu** (莊憲皇后), là vợ thứ của Đường Thuận Tông Lý Tụng và mẹ đẻ của Đường
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Thánh Hiến Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖獻皇后 hoặc 聖憲皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách Thánh Hiến Hoàng Hậu (聖獻皇后)
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Đại Quang Hiển** (, ? ~ ?) là vị thái tử cuối cùng của vương quốc Bột Hải, là con trai cả của quốc vương Đại Nhân Soạn. Ông đã lãnh đạo những người tị
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Dạng Mẫn hoàng hậu** (chữ Hán: 煬愍皇后, 567 – 17 tháng 4, năm 648), thường gọi **Tiêu hoàng hậu** (蕭皇后), là Hoàng hậu của Tùy Dạng Đế Dương Quảng trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Hiếu Thành Hứa hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成許皇后, ? - 8 TCN) hay **Phế hậu Hứa thị**, là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị Hoàng đế thứ 12 của
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế