✨Từ Ý Hoàng hậu

Từ Ý Hoàng hậu

Từ Ý Hoàng hậu (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng.

Thân thế

thumb|Từ Ý Hoàng hậu. Từ Ý Hoàng hậu có tên là Lý Phượng Nương (李鳳娘), nguyên quán ở An Dương (nay thuộc Hà Nam), là con gái của Khánh Viễn quân Tiết độ sứ Lý Đạo (李道). Lúc bà chào đời, có con phượng hoàng đen đến đậu trước doanh tiền nơi ở của Lý Đạo. Lý Đạo lấy làm ngạc nhiên nên đặt tên cho con gái là "Phượng Nương".

Khi đó, Lý Đạo có quen biết với đạo sĩ Hoàng Phủ Thản (皇甫坦), khi đến Hồ Bắc đã tìm dịp trò chuyện và bảo các con gái đến chào Hoàng Phủ Thản. Hoàng Phủ Thản thấy mặt của bà, rất kinh ngạc và không dám nhận lễ bái, nói:"Người này về sau tất là mẫu nghi thiên hạ".

Về sau Hoàng Phủ Thản vào cung, gặp mặt Tống Cao Tông và nói về bà, bảo rằng bà có tướng Quốc mẫu. Tống Cao Tông tin là thực, liền cưới về làm phi cho Hoàng tử thứ ba của Tống Hiếu Tông là Cung vương Triệu Đôn tức Tống Quang Tông. Bà được phong làm Vinh Quốc Phu nhân (榮國夫人), sau đổi là Định Quốc Phu nhân (定國夫人).

Năm Can Đạo thứ 4 (1168), bà hạ sinh Hoàng tôn Triệu Khoáng tức Tống Ninh Tông, là con trưởng của Triệu Đôn. Về sau, Triệu Đôn được lập làm Thái tử, bà do đó trở thành Thái tử phi. Tuy bà có tướng mạo xinh đẹp nhưng tính tình thì chua ngoa đố kị, ngay trước mặt Tống Cao Tông và Tống Hiếu Tông còn dám nói chuyện đúng sai, có khi còn nói tố cáo những điều sai trái của Thái tử. Tống Cao Tông cảm thấy không vui, nói với Thọ Thánh Thái thượng hoàng hậu:"Người đàn bà này chẳng biết thế nào là mềm mỏng, trẫm bị Hoàng Phủ Thản lừa rồi".

Tống Hiếu Tông cũng thường khuyên bà phải biết tuân theo gia pháp nếu không sẽ bị phế. Bà chẳng những không nghe, mà còn tỏ ra coi thường Thọ Thánh Thái thượng hoàng hậu.

Hoàng hậu

Năm Thuần Hi thứ 16 (1189), Tống Hiếu Tông nhường ngôi cho Thái tử, lên làm Thái thượng hoàng, cư ở Trọng Hoa điện (重华殿). Thái tử kế vị tức Tống Quang Tông, sau đó hạ chiếu phong Thái tử phi làm Hoàng hậu. Tôn hiệu của Tống Hiếu Tông sau khi nhường ngôi là Thọ Hoàng Thánh đế (寿皇圣帝) nên thường được gọi là Thọ Hoàng (寿皇).

Kết đảng loạn chính

Tống Quang Tông khi ấy chấp chính triều cương, muốn giết bọn hoạn giả, cận tập gần gũi với Lý Hoàng hậu. Bọn Nội thị hay được, liền tìm cách kêu xin với Lý Hoàng hậu bảo toàn mạng sống cho mình. Tống Quang Tông không làm gì được nên uất ức và sinh bệnh.

Lũ Nội thị lại nghĩ ra kế li gián Tam cung. Lúc Tống Quang Tông mắc bệnh, Thọ Hoàng cho tìm ngự y chế ra ít thuốc định đợi lúc Tống Quang Tông đến vấn an thì ban cho. Lũ Nội thị chớp cơ hội gièm pha với Lý Hoàng hậu, nói: "Thọ Hoàng hợp biết bao nhiêu thuốc không tốt, xa giá mà đến Trọng Hoa điện thì ép phải uống, Hoàng thượng uống vào có mệnh hệ gì thì tông xã ra sao?". Lý Hoàng hậu tin là thật nên tìm cách ngăn trở Tống Quang Tông đến Trọng Hoa điện, dẫn đến rạn nứt tình cảm giữa Tống Quang Tông và Thọ Hoàng.

Tống Quang Tông trong 5 năm trị vì, tinh thần luôn hư nhược không minh mẫn, Lý Hoàng hậu do đó dần thay Tống Quang Tông phê duyệt tấu chương, kết bè kết đảng. Bà còn phong cho tổ tiên 3 đời tước Vương, trong gia miếu Lý thị thì từ đường nguy nga tráng lệ, vệ binh phần nhiều được lấy từ trong Thái miếu. Vào lúc Lý Hoàng hậu đến gia miếu, đã ban thưởng quan tước trọng hậu cho 26 người họ hàng thân thuộc, 170 người được phong là Thị thần, ngay môn khách Lý thị gia tộc cũng có người được phong quan. Từ thời Trung Hưng đến trước đó, chưa có trường hợp nào như thế cả.

Ghen tuông cung thiếp

Một hôm nọ, có cung nhân bưng một hộp trầu đứng hầu Tống Quang Tông, Tống Quang Tông cảm thấy đôi bàn tay của cung nhân trắng trẻo, thon thả nên hết lời khen ngợi. Chuyện này lọt vào tai Lý Hoàng hậu. Hôm sau, hậu sai nội thị bưng một hộp trầu đến dâng, Tống Quang Tông mở ra thì hỡi ôi, đó là đôi bàn tay của cung nhân nọ.

Hoàng Quý phi vốn được sủng ái, Lý Hoàng hậu sinh ghen tức. Một hôm, Hoàng có việc tế Tông miếu phải ra ngoài, Lý Hoàng hậu sai người đánh Hoàng Quý phi tới chết rồi nói là Hoàng Quý phi bệnh nặng mà qua đời. Lúc Hoàng tế lễ thì bỗng trời đổ mưa to, lễ phục của Hoàng bị ướt sạch, nến lại bị gió thổi tắt đi nhiều lần, cuối cùng lễ không thành.

Tam cung ly gián

Mùa đông năm Thiệu Hi thứ 2 (1191), nhân lúc có yến tiệc, Lý Hoàng hậu xin Tống Quang Tông lập con trai mình là Gia vương Triệu Khoáng tức Tống Ninh Tông làm Thái tử, rồi đích thân đến Trọng Hoa điện bẩm với Thọ Hoàng. Do Thọ Hoàng nghĩ đến việc trước kia bỏ qua con trưởng là Ngụy vương Triệu Khải để lập Tống Quang Tông làm Thái tử, nên nay muốn Tống Quang Tông nhường ngôi lại cho con của Ngụy vương Triệu Khải là Nghi vương Triệu Bính, do vậy Thọ Hoàng bảo cần phải chọn, không thể quyết định vội vàng. Lý Hoàng gậu bảo:"Thiếp là Chính thất được cưới hỏi đàng hoàng, Gia vương do thiếp sinh ra cớ sao lại không thể lập?".

Thọ Hoàng cảm thấy rất tức giận, chửi mắng Lý Hoàng hậu, do đó Lý Hoàng hậu uất ức, về tâu với Tống Quang Tông việc Thọ Hoàng có ý phế lập. Vì thế, Tống Quang Tông nghi hoặc và từ đó bỏ việc triều yết Thọ Hoàng.

Sau sự kiện Hoàng Quý phi qua đời, biết là có điều mờ ám nhưng không dám nói, lâu ngày vì quá thương nhớ Hoàng Quý phi mà bệnh tình trở nặng, không thể lên triều. Lý Hoàng hậu nhân đó tìm cách khống chế triều chính, độc đoán độc hành, hoang đường bất pháp, mọi chính sự đa phần do Lý Hoàng hậu quyết đoán. Về phần Thọ Hoàng nghe tin Tống Quang Tông có bệnh vội đến thăm, thấy Lý Hoàng hậu thì tức giận mắng nhiếc bà, khiến Lý Hoàng hậu đã hận lại càng thêm hận.

Tết Nguyên đán năm Thiệu Hi thứ 4 (1193), Lý Hoàng hậu theo Tống Quang Tông đến Trọng Hoa điện và ở đến tận cuối mùa xuân. Sau đó, Lưỡng cung lại cùng Thọ Hoàng và Thọ Thành Hoàng hậu đi chơi ở Ngọc Tân viên. Đến tháng 9, lúc Tống Quang Tông chuẩn bị ngự giá đến Trọng Hoa điện thì Lý Hoàng hậu từ đâu xuất hiện, nói:"Trời lạnh, quan gia vào cung uống rượu".

Bách quan ra sức can ngăn. Trung thư Xá nhân Trần Truyền Lương đuổi theo Tống Quang Tông, nắm giữ Hoàng bào lại. Lý Hoàng hậu bèn kéo tuột Tống Quang Tông vào sau ngự bình, Trần Truyền Lương cũng chạy theo vào cung. Lý Hoàng hậu tức giận nói:"Ở nơi này sao vô duyên vô cớ mà vào. Bọn nô tài ở đây chả nhẽ không dám lấy đầu người sao?".

Trần Truyền Lương phải buông tay, nhưng lại quay ra than khóc trước điện. Lý Hoàng hậu sai người tới hỏi:"Vô cớ mà khóc là có ý gì". Trần Truyền Lương đáp:"Con can gián mà cha không nghe, nên mới khóc".

Lý Hoàng hậu bực tức, liền bỏ không về Trọng Hoa điện nữa, bách quan phải lui về. Về sau, Thọ Hoàng bệnh nặng, Tống Quang Tông cũng không chịu đến thăm.

Cuối đời

Năm Thiệu Hi thứ 5 (1194), ngày 28 tháng 6, Thọ Hoàng băng hà ở Trọng Hoa điện, Tống Quang Tông không đến chịu tang. Không lâu sau, Tống Quang Tông cũng ốm nặng. Tể tướng Triệu Nhữ Ngu nhân đó tìm cách thông qua Thọ Thánh Hoàng thái hậu, ép Tống Quang Tông nhường ngôi cho Gia vương Triệu Khoáng tức Tống Ninh Tông.

Tống Quang Tông được tôn làm Thái thượng hoàng, Lý Hoàng hậu trở thành Thái thượng hoàng hậu. Bà được dâng tôn hiệu là Thọ Nhân Thái thượng hoàng hậu (寿仁太上皇后).

Năm Khánh Nguyên thứ 6 (1200), ngày 4 tháng 6 (tức ngày 23 tháng 7 dương lịch), Thọ Nhân Thái thượng hoàng hậu giá băng, thọ 56 tuổi, thụy hiệu là Từ Ý Hoàng hậu (慈懿皇后). Mấy tháng sau, Tống Quang Tông cũng băng hà.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Ý Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:懿皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ quân chủ ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Hậu Tấn Hiến Tổ Ý hoàng
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hiến Tiết Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲節皇后; 1106 - 1139), tên thật **Hình Bỉnh Ý** (邢秉懿), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Cao Tông Triệu Cấu. Tuy được phong Hậu, nhưng
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Vũ Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 武成皇后; 551–582), A Sử Na thị (阿史那氏) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung, hoàng đế Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慈高皇后, ; 1575 - 31 tháng 10 năm 1603), là một Đại phúc tấn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đồng thời là sinh mẫu của
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiếu Ý Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:孝懿皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Lưu Tống Hiếu Đế Hiếu Ý hoàng
**Nguyễn Thị Sen** (? - ?) là tứ phi Hoàng hậu nhà Đinh, vợ của vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam, Bà được hậu thế tôn vinh là bà tổ nghề may.
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Chiêu Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭懷皇后, 1079 - 1113), còn gọi là **Nguyên Phù Hoàng hậu** (元符皇后) hoặc **Sùng Ân Thái hậu** (崇恩太后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống Triết Tông Triệu Hú.
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy