✨Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu

Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu

Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là Thọ Thánh Hoàng thái hậu (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao Tông Triệu Cấu.

Bà là người đức cao vọng trọng, phò tá Tống Cao Tông trong thời kì khó khăn, muôn phần được tín nhiệm. Tuy không phải là sinh mẫu của Tống Hiếu Tông nhưng bà vẫn được tôn trọng và kính cẩn. Theo đó, các đời Tống Quang Tông và Tống Ninh Tông bà trở thành trưởng bối tối cao trong hậu cung Nam Tống mặc dù trên thực tế, bà không có quan hệ ruột thịt đối với các vị Hoàng đế này. Bà cùng với Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu của Hán Chiêu Đế là hai Hoàng hậu đối với các Hoàng đế tại vị không hề có quan hệ máu mủ mà chỉ là trên danh nghĩa nhưng lại giữ ngôi vị cao quý cung phụng nhất.

Tiểu sử

thumb|Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu Ngô thị. Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu có tên đầy đủ là Ngô Thược Phân (吴勺芬) ở Khai Phong (nay thuộc tỉnh Hà Nam), phụ thân là Vũ Dực lang Ngô Cận (吴近). Một hôm, Ngô Cận nằm mộng thấy ở trong một ngôi đình, có chữ "Thị Khang" (侍康), xung quanh trồng rất nhiều hoa thược dược xinh đẹp. Năm bà 14 tuổi thì mỹ mạo xuất chúng, nhập phủ Khang vương Triệu Cấu tức Tống Cao Tông, Ngô Cận nhớ lại giấc mộng xưa, cho là điềm hỉ sự.

Khi Tống Cao Tông lên ngôi tại Lâm An, Nam Tống còn sơ khai, truy binh của nhà Kim còn hăm he, bà luôn mặc quân phục, trang bị binh khí, luôn sát cánh bên Tống Cao Tông không rời. Bà tuy không thành thạo thi thư, nhưng tính người thông tuệ, lại sảng khoái. Nhà Kim nam tiến, Tống Cao Tông phải đi thuyền từ Định Hải (Trấn Hải, Chiết Giang) đến Xương Quốc (Phổ Đà, Chiết Giang). Khi thuyền đang đi, có con cá nhảy lên đầu thuyền, có vẻ vui mừng, bà buột miệng nói: "Thử chu nhân bạch ngư chi tường dã", tức sự tích Chu Vũ vương hưng khởi phạt nhà Thương. Tống Cao Tông nghe thế đại hỉ, phong bà làm Hòa Nghĩ Quận phu nhân (和义郡夫人).

Khi Tống Cao Tông về lại Việt Châu, tấn phong bà thành Tài nhân (才人). Ngô Tài nhân sau khi được tấn phong, ra sức tiếp cận thi thư, có nhiều điều thông tuệ, đặc biệt là thư pháp. Không lâu sau, bà cùng Trương Tiệp dư được lập làm Uyển nghi (婉仪), rồi cuối cùng là Quý phi (贵妃).

Nhập cung

Hoàng hậu Nam Tống

Năm Thiệu Hưng thứ 12 (1142), tháng 8, mẹ của Tống Cao Tông là Hiển Nhân Hoàng thái hậu được nhà Kim trao trả, ngự ở Từ Ninh cung (慈寧宮). Ngô Quý phi với thân phận cao nhất đón tiếp Thái hậu chu đáo, rất được yêu mến. Cũng lúc đó, tin tức về cái chết của Hiến Tiết Hoàng hậu Hình thị truyền tới Lâm An, khiến cho Tống Cao Tông đau khổ cùng cực. Ngô Quý phi hiểu lòng phu quân, lập tức định hôn hai người cháu là Ngô Tuân (吳珣) và Ngô Cư (吳琚) cho 2 nữ nhân trong họ của Hình hoàng hậu để an ủi vong linh bà.

Tể tướng Tần Cối dâng sớ tâu lập Kế hậu, Hoàng thái hậu ngỏ ý sách lập Ngô Quý phi. Năm Thiệu Hưng thứ 13 (1143), Ngô Quý phi được chính thức sách phong làm Hoàng hậu.

Bấy giờ, con trai duy nhất của Tống Cao Tông là Hoàng tử Triệu Phu qua đời. Trong hậu cung, Trương Hiền phi nhận nuôi dưỡng Triệu Bá Tông (赵伯琮), dòng dõi con cháu của Tống Thái Tổ. Khi Ngô hoàng hậu còn là Tài nhân đã nhận tông thất Triệu Cừ (赵璩) làm con của mình. Sau khi Trương Hiền phi bệnh mất, Triệu Bá Tông được Ngô hoàng hậu nuôi dưỡng, đối với hai người con nuôi, Ngô hoàng hậu tích cực nuôi dưỡng, không thiên vị ai cả.

Tống Cao Tông phong Triệu Bá Tông làm Phổ An Quận vương (普安郡王) còn Triệu Cừ làm Ân Bình Quận vương (恩平郡王). Triệu Bá Tông tính tình cung kiệm, thích đọc sách, Ngô hoàng hậu khuyên Tống Cao Tông lập làm Hoàng tử. Tống Cao Tông chấp thuận, sách phong Triệu Bá Tông làm Kiến vương (建王), đổi tên thành Triệu Thận (赵昚). Triệu Cừ nhận mệnh đến ở tại Thiệu Hưng.

Thái thượng Hoàng hậu

Năm Thiệu Hưng thứ 32 (1162), Tống Cao Tông nhượng vị, Triệu Thận nối ngôi, tức Tống Hiếu Tông. Tống Cao Tông được tôn làm Thái thượng hoàng còn Ngô hoàng hậu trở thành Thái thượng hoàng hậu, cùng ngự ở Đức Thọ cung (德寿宫).

Không lâu sau, Tống Hiếu Tông tôn bà thành Thọ Thánh Thái thượng hoàng hậu (壽聖太上皇后). Sau nhiều lần dâng tôn hiệu, toàn xưng Thọ Thánh Tề Minh Quảng Từ Bị Đức Thái thượng hoàng hậu (壽聖齊明廣慈備德太上皇后).

Hoàng thái hậu

Năm Thuần Hi thứ 14 (1187), Tống Cao Tông băng hà, di chiếu cải xưng Ngô hoàng hậu trở thành Hoàng thái hậu. Tống Hiếu Tông làm lễ nghênh đón Ngô Thái hậu về Đại nội nhưng Ngô Thái hậu nhất quyết ở lại Đức Thọ cung, chỉ đổi tên thành Từ Phúc điện (慈福殿).

Năm Thuần Hi thứ 16 (1189), Tống Hiếu Tông nhượng vị, Tống Quang Tông nối ngôi. Ngô Thái hậu được dâng tôn hiệu Thọ Thánh Hoàng thái hậu (壽聖皇太后). Vì Tống Hiếu Tông trở thành Thái thượng hoàng xưng "Thọ Hoàng" (壽皇), nên Thọ Thánh Hoàng thái hậu không thể được tôn làm Thái hoàng thái hậu.

Thái hoàng thái hậu

Năm Thiệu Hi thứ 4 (1193), Thọ Thánh Hoàng thái hậu thọ 80 tuổi. Tống Quang Tông dâng sách vàng, tôn hiệu thành Thọ Thánh Long Từ Bị Phúc Hoàng thái hậu (壽聖隆慈备福皇太后). Năm thứ 5 (1194), mùa xuân, Tống Quang Tông suất quần thần làm lễ Khánh thọ, Gia vương Triệu Khoáng (赵扩) làm trắc theo hầu, dâng lên Thọ Thánh Long Từ Bị Phúc Hoàng thái hậu lễ vật và biểu mừng. Mùa hạ năm đó, Tống Hiếu Tông băng hà, Thọ Thánh Long Từ Bị Phúc Hoàng thái hậu trở thành Thái hoàng thái hậu, lúc này bà đã 81 tuổi.

Tháng 9 năm đó, Tống Quang Tông lâm trọng bệnh, không thể chủ trì tang sự cho Tống Hiếu Tông, tể tướng thỉnh ý Ngô Thái hoàng thái hậu đứng ra chủ trì tang sự nhưng bà từ chối. Sở dĩ có trường hợp này là vì cố sự Đường Túc Tông khi xưa, không thể không có người chủ trì. Do kiến nghị ngày một nhiều và trọng điểm là lời tâu của Khu mật xứ Triệu Nhữ Ngu (赵汝愚), Ngô Thái hoàng thái hậu đành chấp thuận ý kiến chủ trì "Thùy liêm thính chánh" tại Tử cung của Tống Hiếu Tông, tuyên theo Tống Quang Tông chỉ ý, lập Gia vương Triệu Khoáng lên ngôi tức Tống Ninh Tông. Sự việc sau khi xong, Ngô Thái hoàng thái hậu liền quy chánh, bỏ việc thùy liêm còn Tống Quang Tông thì lui về làm Thái thượng hoàng.

Năm Khánh Nguyên thứ nhất (1195), Ngô Thái hoàng Thái hậu được Tống Ninh Tông tôn hiệu Quang Hựu Thái hoàng thái hậu (光祐太皇太后), dâng ngự ở Trùng Hoa cung (重华宫). Vì Tống Quang Tông trở thành Thái thượng hoàng nên Tống Ninh Tông không thể tôn Quang Hựu Thái hoàng Thái hậu làm Thái Thái hoàng thái hậu.

Năm Khánh Nguyên thứ 3 (1197), ngày 2 tháng 11 (âm lịch), Quang Hựu Thái hoàng thái hậu giá băng, thọ 84 tuổi. Thụy hiệu đầy đủ là Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu (憲聖慈烈皇后), an táng tại Vĩnh Tư lăng (永思陵).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Liệt Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:烈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Đông Hán Quang Vũ Đế đệ nhị nhiệm
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Thánh Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:聖皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách ### Việt Nam #Tiền Lê
**Ngô hoàng hậu** () có thể là: * Ngô hoàng hậu, hoàng hậu của Lưu Bị. * Chương Kính hoàng hậu, là cung nhân họ Ngô của Đường Túc Tông, sinh Đường Đại Tông, được
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Hòa Âm Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和陰皇后, ? - 103), hay còn gọi **Phế hậu Âm thị** (廢后陰氏), là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Hòa Đế Lưu Triệu thời kỳ Đông Hán. Bà
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 吳皇后; ? - 245), là người vợ thứ ba nhưng lại là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị và là Hoàng hậu đầu tiên của
**Hiếu Nghị Tương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝毅襄皇后; 1605 - 1646), Hoàng hậu duy nhất của Minh Thiệu Tông Long Vũ Đế, Hoàng đế thứ hai nhà Nam Minh. Bà cũng là Hoàng hậu đầu
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Minh Nguyên hoàng hậu** (chữ Hán: 明元皇后; ? - 263), họ Quách, là Hoàng hậu thứ hai của Tào Ngụy Minh Đế Tào Duệ, và là Hoàng thái hậu dưới thời Tào Ngụy Phế Đế
**Hiếu Uyên Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝淵景皇后; 1427 - 15 tháng 1, 1506), nhưng được Minh sử ghi thành **Cảnh Đế Uông Phế hậu** (景帝汪廢后), là Hoàng hậu đầu tiên Minh Đại Tông Chu
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Ất Phất hoàng hậu** (chữ Hán: 乙弗皇后) (510–540), thụy hiệu: **Văn hoàng hậu** (文皇后) là hoàng hậu thứ nhất của Tây Ngụy Văn Đế (西魏文帝) Nguyên Bảo Cự (元寶炬) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Vũ Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 宇文皇后) (? - 554?) là hoàng hậu của Tây Ngụy Phế Đế (西魏廢帝) Nguyên Khâm (元欽) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân bà là Thượng
**Túc Hiếu Hàng Hoàng hậu** (chữ Hán: 肅孝杭皇后, ? - 1456), cũng gọi **Cảnh Đế Hàng Hoàng hậu** (景帝杭皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Đại Tông Chu Kì Ngọc. Bà là mẹ của
**Hoàng hậu Matilda, Matilda của Anh** (tiếng Anh: _Empress Matilda/Matilda of England_, tiếng Latinh: _Mathildis Imperatrix_; tiếng Tây Ban Nha: _Emperatriz Matilde/Matilde de Inglaterra_; 7 tháng 2, 1102 - 10 tháng 9, 1167), còn được
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Cao Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:高皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu, hoặc chỉ các vị hoàng hậu họ Cao trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông.