✨Trương hoàng hậu (Đường Túc Tông)

Trương hoàng hậu (Đường Túc Tông)

Đường Túc Tông Trương hoàng hậu (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi Trương Thứ nhân (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8 hoặc thứ 10 của nhà Đường.

Sau khi trở thành Hoàng hậu, Trương thị đã liên kết với hoạn quan Lý Phụ Quốc, hoành hành cung cấm, can dự triều chính, uy hiếp đến ngai vị thông qua một cuộc binh biến muốn lật đổ Đường Đại Tông.

Tiểu sử

Trương hoàng hậu nguyên quán ở Đặng Châu, Nam Dương, Hà Nam. Tổ mẫu Đậu thị là em gái của Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu Đậu thị, mẹ của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Cha của Trương hoàng hậu là Kim ngô đại tướng quân Trương Khứ Dật (張去逸). Mẹ Trương thị là Đậu phu nhân, cũng trong dòng họ của tổ mẫu Đậu thị, do đó Trương thị cũng có họ hàng với chồng tương lai là Đường Túc Tông.

Khi Võ Tắc Thiên giết hại Đậu thị cùng Lưu hậu ở trong cung, Huyền Tông khi ấy còn nhỏ giao phó cho Yên Quốc phu nhân Đậu Thục (窦淑) và Đậu thị cùng nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Huyền Tông lên ngôi, phong Đậu thị làm Đặng Quốc phu nhân (鄧國伕人), hưởng vinh hoa phú quý. Các con trai bà, trong đó có Trương Khứ Dật đều là đại thần quan trọng.

Trở thành Lương đệ

Năm đầu Thiên Bảo đời Đường Huyền Tông, Trương thị được tuyển vào cung làm thiếp của Trung vương Lý Hanh, mang tước hiệu Nhụ nhân (孺人). Sau khi Lý Hanh làm Thái tử, bà được phong làm Lương đệ (良娣), địa vị cao nhất trong các phi thiếp của Thái tử, chỉ dưới chính thất là Thái tử phi. Sau khi Thái tử ly hôn với Thái tử phi Vi thị năm 746, Trương Lương đệ trở thành sủng phi của Lý Hanh. Bà được nhận xét là thông minh, ăn nói khéo léo, rất được lòng người.

Năm Thiên Bảo thứ 12 (753), Trương Lương đệ sinh hạ một người con trai, chính là Hưng vương Lý Thiệu. Cuối năm Thiên Bảo thứ 14 (755), An Lộc Sơn chính thức khởi binh tạo phản. Quân An thế lực lớn mạnh, thắng trận liên tiếp, lần lượt phá vỡ các chốt phòng thủ của nhà Đường, từ căn cứ ban đầu là Phạm Dương chiếm được Lạc Dương rồi Đồng Quan. Năm thứ 15 (756), Huyền Tông và Thái tử Lý Hanh rời khỏi kinh thành Trường An, bỏ chạy về phía Tây Thục. Đường đến Kiếm Nam (劍南), Thái tử tách khỏi đoàn người Huyền Tông và đóng quân tại Linh Vũ cùng con trai là Kiến Ninh quận vương Lý Đàm.

Trên đường đi, Thái tử có ít người bảo vệ. Buổi tối, Trương Lương đệ luôn ngủ bên ngoài Thái tử. Khi Lý Hanh nói với bà: "Phụ nữ thì không cần trách nhiệm đánh nhau với giặc cướp", thì bà đã trả lời:"Thiếp sợ nếu biến cố bất ngờ xảy ra, có thể lấy thân mình làm khiên bảo vệ thái tử và hoàng tộc". Tại Linh Vũ, Trương thị hạ sinh một đứa bé, nhưng chỉ 3 ngày sau khi sinh là ngồi dậy may quần áo cho binh sĩ. Lý Hanh hỏi bà sao không nghỉ ngơi, bà đáp: "Không có thời gian nghỉ ngơi". Thái tử cảm động và càng sủng ái bà hơn. Trương Lương đệ sau lại hạ sinh con trai thứ hai là Lý Đồng.

Phong Phi lập Hậu

Ngày Giáp Tý (tức ngày 12 tháng 8) cùng năm, Thái tử Lý Hanh xưng Hoàng đế ở Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông, vọng tôn Đường Huyền Tông làm Thái thượng hoàng.

Từ cuối năm Chí Đức nguyên niên, hai nước Hồi Hột và Thổ Phiên cử sứ giả đến đề nghị cùng nhau phá quân Yên. Đáp lại, Túc Tông quyết định hòa thân với Hồi Hột, phong cho con gái Hồi Hột Khả hãn làm Công chúa, từ đó hai nước kết minh, cùng nhau chống An Sử. Cuối năm đó, Hồi Hột Khả hãn sai quân tiến vào lãnh thổ nhà Đường, hợp với Quách Tử Nghi đại phá quân Yến ở Đồng La. Đầu năm Chí Đức thứ 2 (757), một cuộc tranh chấp nổ ra trong nội bộ triều đình lưu vong khi Trương lương đệ liên kết với Nội giám Lý Phụ Quốc, kết bè đảng trong triều. Kiến Ninh quận vương Lý Đàm không vừa lòng, bảo Lý Bí:"Bọn họ Trương, họ Lý ghen ghét hãm hại anh em ta, nếu không trừ thì không xong".

Lý Bí thất kinh, cố khuyên Kiến Ninh quận vương chưa nên kinh động kéo hại đến thân, thế nhưng vương không nghe. Nhiều lần ở trước mặt Túc Tông, Kiến Ninh kể tội bọn đàn bà và quan thị độc ác, nham hiểm. Sau đó, Kiến Ninh còn lập mưu định giết Trương lương đệ, Lý Phụ Quốc. Trương Lương đệ và Lý Phụ Quốc lo sợ nên trước mặt Túc tông đã dâng sớ đàn hặc, gièm pha vu cáo Kiến Ninh quận vương có ý giết Hoàng trưởng tử là Quảng Bình vương Lý Thục, tiếm ngôi:"Lý Đàm xưa nay chỉ hận không được lĩnh chức tổng binh, đến nay đã có ý đồ khác". Đường Túc Tông tức giận hạ lệnh ép Lý Đàm phải uống rượu độc tự sát.

Mùa đông năm Chí Đức thứ 2, sau khi quay lại Trường An, các con trai Trương lương đệ là Lý Thiệu phong Hưng vương (興王), Lý Đồng phong Định vương (定王). Sang năm Càn Nguyên (758), Trương Lương đệ được sách phong làm Thục phi (淑妃), tặng cha là Khứ Dật làm Thượng thư Tả bộc xạ (尚書左仆射), mẹ là Đậu thị phong "Nghĩa Chương Huyện chúa" (義章縣主). Em trai bà là Trương Thanh (张清) thành hôn với Đại Ninh quận chúa (大寧郡主), con gái thứ năm của Lý Hanh, còn một người em trai khác là Trương Tiềm (张潛) thành thân với Diên Hòa quận chúa (延和郡主), các chị em gái cũng thụ phong tước hiệu, như chị Trương thị là vợ của Lý Đàm (李曇) thụ phong tước hiệu "Thanh Hà quận phu nhân" (清河郡夫人), em gái Trương Sư Sư phong "Thành Quốc phu nhân" (郕國夫人). Cũng năm ấy, tháng 4, Túc Tông quyết định lập Trương Thục phi làm Hoàng hậu. Trước đó, Túc Tông cho lập Quảng Bình vương Lý Thục làm Hoàng thái tử, đổi tên là Lý Dự. Tuy nhiên, lúc đó Trương hậu không phục Lý Dự mà muốn ngôi vị Thái tử phải thuộc về con trai mình là Hưng vương Lý Thiệu. Thái tử Lý Dự do đó rất lo sợ, nên tỏ ra khiêm nhường và cung kính đối với Trương hoàng hậu.

Năm Thượng Nguyên nguyên niên (760), tháng 3, triều đình hội nghị, quyết định phong cho Trương Hoàng hậu tôn hiệu Dực Thánh (翊聖). Đại thần lên tiếng phản đối vì trước đây chưa có tiền lệ phong tôn hiệu cho Hoàng hậu. Sau đó trong nước có nguyệt thực, Túc Tông bèn bỏ ý định này. Tuy nhiên lúc đó trong cung cấm, Trương Hoàng hậu cũng đã liên kết với hoạn quan Lý Phụ Quốc, can dự triều chính và có âm mưu phế lập Thái tử, tạo thành một thế lực mới trong triều. Cùng năm, ngày 26 tháng 6 (âm lịch), Hưng vương Lý Thiệu bệnh chết, trong khi người con trai còn lại của Hoàng hậu là Định vương Lý Đồng còn nhỏ tuổi, nên ngôi vị của Lý Dự tạm thời không bị đe dọa. Lý Phụ Quốc và Trương Hoàng hậu ngày một ngang ngược hống hách trong triều, lại nắm được binh quyền ở kinh đô nên cả Túc Tông cũng phải e dè, nạn hoạn quan lộng quyền nửa cuối thời Đường được khơi nguồn từ đó. Trương hoàng hậu sủng bế chuyên phòng, thường được nhận triều bái của mệnh phụ ở Quang Thuận môn (光順門), thế lực càng mạnh mẽ, can dự cả vào triều chính dù không công khai như Võ Tắc Thiên hay Vi Thái hậu khi trước.

Bà thấy Huyền Tông Thượng hoàng ở tại Hưng Khánh cung (興慶宮) già cả yếu đuối, cũng không thèm tôn trọng gì cả. Túc Tông nhiều lần muốn thăm Thượng hoàng cũng bị Trương hoàng hậu ngăn trở. Nhân đó, Lý Phụ Quốc liên kết với Trương hoàng hậu, nhân Thượng hoàng ra cưỡi ngựa, Lý Phụ Quốc ép buộc ông phải trở về cung điện, không lâu sau giả lệnh Túc Tông, xin Thượng hoàng đến Tây Nội bàn việc, lúc này Túc Tông đang bị bệnh không xuống giường được. Khi sắp tới Tây Nội, Thượng hoàng thấy Lý Phụ Quốc mặc võ phục, đeo kiếm, dẫn mấy trăm quân sĩ, vác thương, cầm kiếm, xếp hàng hai bên đường, nên lo sợ. Cao Lực Sĩ mắng Lý Phụ Quốc, do đó Phụ Quốc phải lui ra. Nhưng Thượng hoàng bị giữ lại ở Cam Lộ điện (甘露殿) trong Tây Nội.

Cái chết

Năm Bảo Ứng nguyên niên (762), mùa xuân, Đường Túc Tông bị bệnh nặng, nằm liệt giường không thể dậy nổi và cũng không thể ra coi triều.

Lúc Túc Tông bệnh, Trương Hoàng hậu muốn lấy lòng thương cảm của Hoàng đế đã dùng máu viết kinh Phật để cầu nguyện cho ông. Đến tháng 5 năm đó, do bị kích động vì cái chết của Thượng hoàng Huyền Tông, bệnh tình của Túc Tông càng trở nặng thêm. Lúc này, Trương hoàng hậu và Lý Phụ Quốc sinh ra mâu thuẫn và trở mặt với nhau. Lúc Túc Tông sắp mất, Trương Hoàng hậu bàn với Thái tử Lý Dự nên giết chết Lý Phụ Quốc cùng đồng đảng là Trình Nguyên Chấn (程元振) vì tội chuyên quyền, nhưng Lý Dự cho rằng lúc này không thích hợp để làm việc đó. Trương hoàng hậu từ đó cũng sinh ra lo sợ vì Lý Dự có công lao to, nếu để ông lên ngôi Hoàng đế thì bà ta sẽ rất khó kiềm chế được, nên chuyển sang ủng hộ Nhị hoàng tử là Việt vương Lý Hệ (李係); và cho tuyển hơn 200 dũng sĩ, giả làm hoạn quan, bố trí trong cung để giết Lý Dự.

Ngày 14 tháng 5, Trương hoàng hậu giả mệnh của Túc Tông, triệu Thái tử Lý Dự vào cung để giết đi. Tuy nhiên, việc này bị Lý Phụ Quốc và Trình Nguyên Chấn phát hiện được, bèn báo cho Lý Dự biết. Đêm hôm đó, hai người này dẫn binh vào Lăng Tiêu môn, bắt Trương hậu, Việt vương Lý Hệ cùng bè đảng. Túc Tông lúc đó ở Trường Sinh điện (長生殿), cung nhân và hoạn quan nghe tin trong cung có biến động, bỏ chạy tứ tán, để lại ông nằm trên giường. Lý Dự sai giam Trương hậu ở biệt điện.

Ngày 16 tháng 5 cùng năm. Các anh em bà, và người cậu là Đậu Lý Tín (竇履信) phải bị lưu đày.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Chương Kính Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 章敬吳皇后; ? - 730), thông xưng **Ngô phu nhân** (吳夫人), là cơ thiếp của Đường Túc Tông Lý Hanh khi ông còn là Thái tử. Bà được biết
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Từ Ý Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈懿皇后, 1144 - 1200), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Quang Tông Triệu Đôn và là sinh mẫu của Tống Ninh Tông Triệu Khoáng. ## Thân thế thumb|Từ
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Hiếu Ai Triết Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哀悊皇后, 20 tháng 11 năm 1610 - 25 tháng 4 năm 1644), thường gọi là **Ý An Hoàng hậu** (懿安皇后), là Hoàng hậu duy nhất dưới triều Minh
**Thái thượng hoàng hậu** (chữ Hán: 太上皇后) là chức danh để gọi vị Hoàng hậu của Thái thượng hoàng. Ý nghĩa của danh vị này, theo lý thuyết là _"vị Hoàng hậu bề trên"_ trong
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Chương Mục Hoàng hậu** (chữ Hán: 章穆皇后; 975 - 1007), kế thất của Tống Chân Tông Triệu Hằng, nhưng lại là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của ông. ## Tiểu sử Chương Mục hoàng
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hiếu Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝章皇后, 952 - 995), còn gọi **Khai Bảo Hoàng hậu** (開寶皇后), là Hoàng hậu thứ 2 tại vị và là Chính thất thứ 3 của Tống Thái Tổ Triệu
**Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 保慈順聖皇后, ? - tháng 7, 1330), là Hoàng hậu của Trần Anh Tông, mẹ đích của Trần Minh Tông. ## Tiểu sử Hoàng hậu là con gái
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong