✨Đường Hiến Tông

Đường Hiến Tông

Đường Hiến Tông (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là Lý Thuần (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong lịch sử Trung Hoa. Ông trị vì từ năm 805 đến 820, tổng cộng 15 năm.

Ông được đánh giá là một vị Hoàng đế chăm lo triều chính và đã nhận ra mối nguy của phiên trấn nên quyết tâm quét sạch chúng. Quân đội triều đình đã đánh bại nhiều Tiết độ sứ như Lưu Tịch, Lý Kỹ, Dương Huệ Lâm,... trong các năm 806 - 807. Năm 813, Tiết độ sứ Điền Hoằng Chính ở Ngụy Bác đã quy phục triều đình. Thất bại đầu tiên của ông năm 813 trước Vương Thừa Tông nhưng đến năm 817, sau thất bại của Lý Sư Đạo và sự phục tùng của Vương Thừa Tông thì hầu như phần lớn các Tiết độ sứ đều quy thuận triều đình.

Các sử gia sau này nói tới thời kỳ trị vì của ông như là [Nguyên Hòa trung hưng; 元和中興].

Thân thế và cuộc sống ban đầu

Đường Hiến Tông bổn danh Lý Thuần (李淳), chào đời vào năm 778 tại Đông cung, thành Trường An do lúc đó, Hoàng tổ phụ của ông là Đường Đức Tông Lý Quát vẫn còn là Đông cung Hoàng thái tử. Phụ thân ông là Đường Thuận Tông Lý Tụng và mẫu thân là Lương đệ Vương thị. Sang năm 779, Đức Tông lên ngôi rồi đến năm 780, cha ông tức Lý Tụng được phong làm Đông cung Hoàng thái tử, do vậy Lý Thuần mang thân phận Hoàng đích tôn. Trong những năm 784 - 785, Lý Thuần mới khoảng sáu, bảy tuổi có một hôm được gặp Hoàng tổ phụ Đức Tông. Đức Tông ôm ông vào lòng và hỏi:"Tử là ai, sao lại ở gần Trẫm thế?".

Lý Thuần trả lời:"Là đệ tam Thiên tử".

Năm 804, cha Lý Thuần là Đông cung Hoàng thái tử Lý Tụng bị đột quỵ, dẫn đến mất khả năng nói và đi lại. Khi Đường Đức Tông qua đời vào tháng 2 năm 805, triều đình xảy ra tranh cãi về việc ai là người kế vị, bởi Thái tử Lý Tụng trọng bệnh, không đủ khả năng quản lý triều chính. Một số hoạn quan trong triều không muốn lập Lý Tụng, khi hai đại thần Trịnh Nhân và Vệ Thứ Công vào cung soạn thảo di chiếu, các hoạn quan này lại đề nghị nên để Lý Thuần trực tiếp lên ngôi Hoàng đế, còn Lý Tụng thì sẽ tôn làm Thái thượng hoàng. Nhưng Vệ Thứ Công cho rằng quyết định như vậy có thể làm cho Hoàng tộc xảy ra tranh chấp, nên vẫn quyết định lập Hoàng thái tử Lý Tụng đăng vị, cuối cùng mọi người bằng lòng.

Ngày Giáp Ngọ (tức ngày 26 tháng 2), Thái tử Lý Tụng lên ngôi, tức là Đường Thuận Tông, hoạn quan nhân đó bàn kế hoạch loại bỏ các đại thần thân tín của Thúc Văn và chấm dứt công cuộc cải cách, tiếp sau là đưa Thái tử Lý Thuần lên ngôi. Ngày Ất Mùi 26 tháng 7 ÂL, hoạn quan ép Thuận Tông cho Hoàng thái tử nhiếp chính, thay mặt Thuận Tông yết kiến bá quan ở triều đường. Ngày hôm sau, Lý Thuần đến điện Lân Đức nghe bách quan tấu sự.

Tháng 8, ngày Canh Tí (4 tháng 8), Đường Thuận Tông hạ chiếu nhường ngôi cho Hoàng thái tử Lý Thuần, cải nguyên Vĩnh Trinh, còn mình xưng là Thái thượng hoàng, mẹ Thái tử là Vương thị cải tôn làm Thái thượng hoàng hậu. Ngày Ất Tị (9 tháng 8 ÂL, 5 tháng 9 DL), ông chính thức đăng cơ ở Tuyên Chánh điện, tức là Đường Hiến Tông. Thái thượng hoàng chuyển sang ở Sùng Khánh cung.

Ngay sau khi lên ngôi, Hiến Tông cho bãi chức các đại thần đề xướng Vĩnh Trinh Duy Tân như Vương Thúc Văn, Vương Bái, Hàn Thái, Hàn Diệp, Liễu Tông Nguyên... và đuổi họ ra khỏi triều đình, sau lại bắt Vương Thúc Văn phải tự tử. Vĩnh Trinh Duy Tân chấm dứt. Ngày hôm sau 6 tháng 9 (Bính Ngọ), Công chúa Thăng Bình dâng 50 tì nữ, nhưng Hiến Tông cho rằng Thượng hoàng không thể nhận nên mình cũng không thể nhận rồi trả về và nói với Thứ sử Tân châu Lưu Dung rằng La Lệnh Tắc nhận cáo của Thượng hoàng yêu cầu phế truất Hiến Tông lập vua khác. Nhưng không ai nghe theo chỉ dụ này, Lệnh Tắc bị đưa về Trường An và bị đánh đến chết. Ngày 11 tháng 2 năm 806, Thượng hoàng Thuận Tông băng hà.

Làm Hoàng đế

Dẹp Lưu Tịch, Lý Kĩ, Dương Huệ Lâm

Sau khi lên ngôi, Hiến Tông tiến hành phong quan chức trên danh nghĩa cho một số phiên trấn bên ngoài như Điền Quý An ở Ngụy Bác và Vương Sĩ Chân ở Thành Đức làm Đồng bình Chương sự, Lưu Tế ở Lư Long và Lý Sư Cổ ở Bình Lư làm Thị trung Tiết độ sứ Vi Cao hoăng, tướng dưới quyền Lưu Tịch tự xưng là Lưu Hậu, đuổi Tiết độ sứ do nhà Đường bổ nhiệm rồi thượng biểu xin phong chức lên triều đình. Do thực lực chưa ổn định nên Hiến Tông chấp nhận công nhận Lưu Tịch, nhưng ngay sau đó Lưu Tịch lại đòi thêm cả đất Đông Xuyên và Sơn Nam Tây Đạo. Không được triều đình chấp thuận, Lưu Tịch đưa quân tấn công vào Đông Xuyên, bao vây Đông Xuyên Tiết độ sứ Lý Khang ở Tử châu. Hiến Tông bấy giờ có ý đánh Thục, triều thần cho rằng đất Thục hiểm trở khó công, duy có Tể tướng Đỗ Hoàng Thường và Lý Cát Phủ khích lệ Hiến Tông xuất quân. Mùa xuân năm 806, lấy Tả Thần Sách hành doanh Tiết độ sứ Cao Sùng Văn dẫn 5000 quân làm tiên phong, Lý Nguyên Dịch dẫn 2000 quân yểm hậu, cùng Sơn Nam Tây Đạo Tiết độ sứ Nghiêm Lệ cùng tiến công Lưu Tịch làm Lưu Hậu. Trong khi đó Đỗ Hoàng Thường lấy cớ Hàn Toàn Nghĩa không có công lớn mà xa xỉ quá độ nên bắt Toàn Nghĩa phải trí sĩ, lấy Lý Diễn lên thay làm Hạ Tuy Tiết độ sứ. Lý Diễn vừa đến thì Dương Huệ Lâm đã đưa binh chống lại. Triều đình quyết định lấy quân ở Hà Đông và Thiên Đức thảo phạt Dương Huệ Lâm. Không lâu sau, Dương Huệ Lâm bị Trương Thừa Kim giết chết ở Hạ châu, gửi thủ cấp về kinh, kết thúc cuộc nổi loạn. Cao Sùng Văn được triều đình phong làm Tiết độ sứ Đông Xuyên. Lý Kĩ lo sợ, bèn xin vào triều yết kiến để tỏ lòng trung thành nhưng lại không thực hiện. Hiến Tông thúc giục không được, bèn quyết định thảo phạt, lấy Lý Nguyên Tố làm Tiết độ sứ mới thảo phạt Lý Kĩ. Lý Kĩ thấy đất Tuyên châu phì nhiêu nên muốn lấy trước, bèn sai quân tướng tiến đánh. Nhưng các tướng này đã hợp nhau làm phản, bắt Lý Kĩ rồi đầu hàng Đường triều. Sau đó Lý Kĩ bị triều đình giết chết xin cưới một Công chúa trong Hoàng gia và giao trả lại trấn cho triều đình. Hiến Tông gả Công chúa Phổ Ninh cho. Tết năm 808, Hiến Tông đổi tôn hiệu là Duệ Thánh Văn Vũ Hoàng đế.

Tình hình triều chính và ngoại giao

Từ năm 805, vua Bột Hải Khang Vương của vương quốc Bột Hải có các hoạt động thương mại với nhà Đường và cũng thường xuyên cử sứ thần sang nhà Đường. Bột Hải Khang Vương phái em họ là Đại Nhân Tú đi sứ sang nhà Đường để triều cống 4 lần vào các năm 805, 806, 807 và 808. Trong số hàng hóa triều cống của vương quốc Bột Hải luôn có cá voi.

Đầu hạ năm 808, Hiến Tông ra lệnh khuyến khích các đại thần trong triều can gián những điều không đúng của vua hay quan lại triều đình, ai nói đúng sẽ được thăng chức. Các đại thần Ngưu Tăng Nhụ, Hoàng Phủ Thực, Lý Tông Mẫn thẳng thắn chỉ trích nhiều thiếu sót của triều đình mà không kiêng dè. Giám khảo Vi Quán và Dương Ư Lăng đánh giá cao những lời chỉ trích này, dâng trình lên, Hiến Tông bằng lòng. Nhưng Tể tướng Lý Cát Phủ không vừa lòng vì những lời chỉ trích xúc phạm đến mình, bèn đến khóc lóc với Hiến Tông, bảo rằng Hàn Lâm Học sĩ Bùi 垍 và Vương Nhai xung đột với nhau, mà Hoàng Phủ Thực lại là cháu của Vương Nhai nên có thể họ bí mất cấu kết với nhau, chuẩn bị sẵn lời nói để nói trong ngày khảo thí. Hiến Tông bèn giáng chức Vương Nhai làm Đô Quan Viên ngoại lang, tước danh vị Học sĩ, sau đó biếm ra Quắc Châu, nhưng sau cũng dùng lại. Bọn của Ngưu Tăng Nhụ không được xét thăng chức mà cũng không bị phạt, sau họ đến phục vụ cho Tiết độ sứ các nơi. Về sau Lý Cát Phủ và Ngưu Tăng Nhụ được nắm quyền trong triều mà tiếp tục tranh chấp với nhau, Lý Cát Phủ đứng đầu Lý Đảng, Ngưu Tăng Nhụ đứng đầu Ngưu Đảng, sử xưng là Ngưu Lý Đảng tranh.

Bộ tộc Sa Đà vốn nhiều năm phụ thuộc Thổ Phiên, được Thổ Phiên bố trí ở đất Cam Châu. Trong năm 808, do bị Thổ Phiên ngờ vực, tù trưởng Sa Đà là Tận Trung hoảng sợ, bèn quy phục nhà Đường, liền bị Thổ Phiên giết. Con là Chấp Nghi đem 10000 người dân và 3000 quân kị đên Linh châu đầu hàng nhà Đường. Tiết độ sứ Linh Diêm Phạm Hi Triều ra tiếp đón và bố trí chỗ ở cho người Sa Đà. Ban đầu họ định cư tại Sóc Phương sau dời sang Hà Đông. Sa Đà dần phát triển thế lực, đến cuối đời Đường cũng phát triển mạnh mẽ, người Sa Đà đã kiến lập nên ba vương triều thời Ngũ Đại là Hậu Đường, Hậu Tấn và Hậu Hán.

Cùng năm 808 An Nam đô hộ là Trương Chu cho sửa đắp lại thành Đại La ở An Nam đô hộ phủ.

Năm 809, theo thỉnh cầu của Lý Giáng, Hiến Tông lập con trưởng là Đặng vương Lý Ninh do Kỉ Mĩ nhân sinh ra làm Hoàng thái tử. Hiến Tông sau đó bỏ qua con thứ hai Lý Khoan do cung tần sinh ra để lập con thứ ba Toại vương Lý Hựu, con của Quách Quý phi làm Hoàng thái tử, đổi tên là Lý Hằng. Các đại thần cũng nhân đó dâng sớ xin lập Quách Quý phi làm Hoàng hậu, nhưng Hiến Tông cho rằng Quý phi đã có thế lực lớn bên nhà mẹ (Quý phi là cháu gái của Đại tướng quân Quách Tử Nghi), nếu phong Hậu thì các phu nhân khác sẽ e ngại mà không dám tiếp cận ông, nên vẫn để trống ngôi Hậu đến tận khi qua đời.

Từ năm 812 đến năm 816, vua Bột Hải Hi Vương của vương quốc Bột Hải phái con trai là Đại Diên Tuấn cùng chú họ là Đại Nhân Tú đi sứ sang nhà Đường (đời vua Đường Hiến Tông) triều cống 5 lần vào các năm 812, 813, 814, 815 và 816.. Năm 816, Hiến Tông phong cho Trung thư Xá nhân Lý Phùng Cát làm Môn hạ Thị lang, Đồng bình Chương sự, và đại thần khác là Vương Nhai đảm nhiệm tướng vị. Cùng năm Vương Thái hậu băng hà, thụy là Trang Hiến Hoàng hậu Vương Sĩ Chân hoăng, con là Phó sứ Vương Thừa Tông kế tập ở Thành Đức, Hiến Tông muốn Thừa Tông hứa cắt đất hai châu Đức, Lệ quy về triều đình để đổi lấy sự công nhận của mình. Nhưng sau khi được công nhận, Vương Thừa Tông không chịu cắt đất, Hiến Tông bèn tước quan chức của Vương Thừa Tông rồi cử Thổ Đột Thừa Thôi cầm quân đánh diệt. Trong khi đó Điền Quý An ở trấn Ngụy Bác cũng ủng hộ Vương Thừa Tông, dự định hai trấn liên quân cùng kháng triều đình.

Cũng năm 809, Ngô Thiếu Thành ở Trấn Hoài Tây hoăng, tướng Ngô Thiếu Dương sát con Thiếu Thành là Thiếu Khanh, tự xưng là Chương Nghĩa Lưu Hậu. Hiến Tông cho rằng Chương Nghĩa dễ đánh diệt hơn Thành Đức, nhưng mình đã trót dùng quân đánh Thành Đức nên chỉ đành tiếc nuối mà thôi, sau đó phong Thiếu Dương làm Hoài Tây Lưu Hậu. Sang năm 810, quân Đường có thắng có thua nhưng không thể tận diệt được Vương Thừa Tông, Tiết độ sứ Lư Tòng ở Chiêu nghĩa cũng cử quân đến giúp Vương Thừa Tông. Tướng Đường là Ô Trọng Dận lừa bắt được Lư Tòng rồi giải về kinh sư. Hiến Tông cảm kích công ấy, muốn cho Ô Trọng Dận làm Tiết độ sứ mới ở Chiêu Nghĩa, nhưng sau nghe lời Lý Giáng nên thôi. Mùa thu năm đó, Vương Thừa Tông sai người đến kinh trần tình và đổ tội cho Lư Tòng li gián mình với triều đình, Hiến Tông do thấy chiến dịch chống Vương Thừa Tông không có kết quả nên đồng ý công nhận Thừa Tông làm Lưu Hậu.

Sau chiến dịch này, Tiết độ sứ Nghĩa Vũ Trương Mậu Chiêu hoăng, con là Trương Hiếu Trung lên nắm quyền nhưng sợ triều đình tấn công, bèn dâng biểu trả lại trấn. Hiến Tông cử Nhâm Địch Giản đến Nghĩa Vũ thay thế. Tuy nhiên binh lính ở Nghĩa Vũ lại nổi dậy làm loạn, bắt gian Nhâm Địch Giản. Tuy nhiên về sau một nhóm binh sĩ khác giải thoát cho ông ta. Từ đó trấn Nghĩa Vũ lại thuộc tầm kiểm soát của triều đình. là Lý Tố hợp quân với triều đình tấn công bất ngờ vào lực lượng của Ngô Nguyên Tế ở Thái châu. Nguyên Tế bị bắt và bị đưa về Trường an hành quyết.

Thấy Ngô Nguyên Tế bị diệt, Vương Thừa Tông và Lý Sư Đạo cực kì sợ hãi. Sang năm 818, Vương Thừa Tông để nghị gửi con mình đến Trường An làm con tin, cắt đất hai châu Đức Lệ quy về triều đình. Hiến Tông ra lệnh xá tội cho Vương Thừa Tông. Lý Sư Đạo cũng hứa cắt đất ba châu Nghi, Mật, Hải và gửi con tin nhưng sau đó Sư Đạo nuốt lời hứa. Do vậy Hiến Tông cử quân thảo phạt trấn Bình Lư. Lý Quang Nhan được bố trí ở Nghĩa Thành để chuẩn bị thảo phạt. Chiến sự nổ ra quyết liệt, quân Đường giành thắng lợi rất nhiều trận. Trước đó, Tể tướng Đỗ Nguyên Hoành từng lâp ra đội Vũ Ninh quân do Vương Trí Hưng chỉ huy tiến hành đàn áp Lý Sư Đạo. Trong quân đội Vũ Ninh quân đàn áp Lý Sư Đạo có ba thương nhân Tân La cùng tham gia và giành được nhiều thành tích trên chiến trường là Trương Bảo Cao, Trịnh Niên và Thôi Võ Xương. Trương Bảo Cao, Trịnh Niên và Thôi Võ Xương từng đột phá được vòng vây của Lý Sư Đạo ở kênh Đại Vận Hà rồi chuyển gạo đến Trường An thành công, cứu được tướng Vương Trí Hưng của Vũ Ninh quân khi vị tướng này đang bị Lý Sư Đạo bắt giữ. Vương Trí Hưng được Hiến Tông phong làm Tiết độ sứ tỉnh Giang Tô thay cho hoạn quan người Tân La là Vương Xương Hà. Trương Bảo Cao, Trịnh Niên và Thôi Võ Xương đều được Hiến Tông phong làm Thiếu tướng quân của Vũ Ninh quân dưới quyền Vương Trí Hưng. Hiến Tông gửi thư yêu cầu vua Tân La Hiến Đức vương phái quân sang giúp nhà Đường dẹp Lý Sư Đạo. Liên quân Đường-Tân La cùng tấn công quân đội của Lý Sư Đạo.

Đến năm 819, Lý Sư Đạo nghi ngờ tướng dưới quyền là Lưu Ngộ, âm mưu giết đi. Lưu Ngộ biết được, bèn quyết định phản lại Lý Sư Đạo, bất ngờ đưa quân tấn công Lý Sư Đạo ở Vận châu và giết Lý Sư Đạo cùng con trai ông ta, gửi đầu về Trường An. Sau thất bại của Lý Sư Đạo, Hiến Tông chia nhỏ trấn Bình Lư làm ba phần để dễ dàng khống chế, Lưu Ngộ được phong làm Tiết độ sứ Nghĩa Thành. Nạn phiên trấn tạm thời được dẹp yên. Thấy người Tân La Trương Bảo Cao có công không nhỏ trong việc đánh dẹp Lý Sư Đạo nên Hiến Tông ban thánh chỉ phong Trương Bảo Cao làm Đại tướng Vũ Ninh quân nhưng Trương Bảo Cao đã từ chối mà quay về làm thương nhân (sau này Trương Bảo Cao tích cực làm thương mại, dẹp hải tặc ở bờ biển tây nam Tân La, mở ra mạng lưới mậu dịch trên biển giữa nhà Đường, Tân La và Nhật Bản).

Lạm dụng thuốc tiên, bất đắc kì tử

Sau khi dẹp được phiên trấn, Hiến Tông Hoàng đế sinh ra dâm dật, kiêu căng và xa xỉ. Các đại thần Hoàng Phủ Bác và Trình Dị hiểu điều đó nên tăng tiền trong ngân khố vào việc chi tiêu trong Hoàng cung, do đó được Hiến Tông sủng tín. Hoàng Phủ Bác và Trình Dị được thăng dần đến Tể tướng. Các Tể tướng khác như Bùi Độ, Thôi Quần nhiều lần can ngăn, nhưng ông không nghe. Bùi Độ chán nản muốn từ quan nhưng lại không được. Sau đó Hiến Tông nghe lời Bác và Dị, đuổi hai vị Tể tướng khỏi kinh đô Trường An.

Hiến Tông lại tin vào thần tiên ma thuật và mong được trường sinh bất lão, bèn hạ chiếu triệu tập phương sĩ trong thiên hạ đến Trường An luyện đan cho mình. Hoàng Phủ Bác tiến cử yêu đạo Liễu Bí. Hiến Tông bố trí cho Liễu Bí ở Hưng Đường cung để luyện đan.

Đầu năm 819, do tin lời đồn có cốt Phật ở một ngôi chùa tại Phụng Thiên, Hiến Tông sai rước hộp xương cốt về và bảo các đại thần phải quỳ lạy và quyên tiền đóng góp cho việc xây đền thờ cho hộp xương cốt đó. Đại thần Hàn Dũ lên tiếng can ngăn, Hiến Tông cả giận bèn hạ lệnh xử tử nhưng may được Tể tướng Bùi Độ và Thôi Quần hết sức kêu xin, Hiến Tông mới tha cho song lại giáng Hàn Dũ làm Thứ sử Triều Châu. Cùng năm, Hiến Tông theo thỉnh cầu của quần thần, xưng tôn hiệu Nguyên Hòa Thánh Văn Thần Vũ Pháp Thiên Ứng Đạo Hoàng đế.

Do lạm dụng quá nhiều đơn dược của Liễu Bí (đạo sĩ do Hoàng Phủ Bác tiến cử) nên Hiến Tông hay khát nước và tính tình trở nên khắc nghiệt, các hoạn quan bị ông đối xử tàn bạo, cho dù chỉ phạm lỗi nhỏ cũng có thể bị giết, nên khiến đám hoạn quan rất bất an. Ngày Canh Tí (14 tháng 2 năm 820), Hiến Tông đột ngột chết tại Trung Hòa điện, thọ 42 tuổi. Nguyên nhân cái chết của ông được cho là do hoạn quan Trần Hoằng Chí (陳弘志) hạ độc.

Tả Trung úy Thổ Đột Thừa Thôi âm mưu hạ bệ Thái tử Lý Hằng để lập Lễ vương Lý Uẩn lên ngôi. Các hoạn quan Mã Tiến Đàm, Lưu Thừa Giai, Vương Thủ Trừng hợp sức đánh bại Thừa Thôi và giết Lễ vương Uẩn. Ngày Bính Ngọ (20 tháng 2), Thái tử Hằng tức vị, tức là Đường Mục Tông..

Ông được dâng thụy hiệu là Thánh Thần Chương Vũ Hiếu Hoàng đế (聖神章武孝皇帝), an táng tại Cảnh lăng (景陵). Năm Đại Trung thứ 3 (849), ông được cải thụy hiệu đầy đủ là Chiêu Văn Chương Vũ Đại Thánh Chí Thần Hiếu Hoàng đế (昭文章武大聖至神孝皇帝).

Gia đình

  • Thân phụ: Đường Thuận Tông Lý Tụng.
  • Thân mẫu: Trang Hiến Hoàng hậu Vương thị (莊憲皇后王氏, 753 - 816), nguyên quán ở Lang Tà quận (琅邪郡), nay là huyện Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông, con gái của Vương Tử Nhan (王子颜).

Hậu phi

Ý An Hoàng hậu Quách thị (懿安皇后郭氏, ? - 851), là cháu gái danh thần Quách Tử Nghi, con gái Phò mã Quách Ái (郭曖) và Thăng Bình Công chúa (昇平公主) - con gái của Đường Đại Tông. So với Hiến Tông, bà thuộc vai vế là biểu cô (表姑). Tuy được cưới làm Chính thê nhưng khi đăng cơ, Đường Hiến Tông chỉ phong bà làm Quý phi, do lo sợ gia thế của bà. Sinh hạ Đường Mục Tông Lý Hằng và Kỳ Dương Trang Thục Công chúa.

Hiếu Minh Hoàng hậu Trịnh thị (孝明皇后鄭氏, ? - 865), người Đan Dương, vốn là thiếp của Trấn Hải Tiết độ sứ Lý Kĩ (李錡). Sinh hạ Đường Tuyên Tông Lý Thục.

Vương Hiền phi (王贤妃).

Hà Chiêu nghi (何昭仪).

Hứa Thái nghi (许太仪).

Mạnh Tiệp dư (孟婕妤).

Kỷ Mỹ nhân (紀美人).

Quách Tài nhân (郭才人).

Triệu Cung nhân (赵宫人).

Đỗ Cung nhân (杜宫人).

Đỗ Thu Nương (杜秋娘), hay Đỗ Trọng Dương (杜仲阳), cũng là thiếp của Lý Kĩ, sau khi Lý Kĩ chết thì bị nạp vào cung giống như Hiếu Minh Hoàng hậu Trịnh thị.

Hoàng tử

Bình Nguyên Quận vương → Đặng vương → Hoàng thái tử → Huệ Chiêu Thái tử Lý Ninh [惠昭太子李寧; 793 - 812], mẹ Kỷ Mỹ nhân.

Đồng An Quận vương → Lễ vương Lý Uẩn [澧王李恽; ? - 820], bổn danh Lý Khoan (李寬).

Toại vương → Đường Mục Tông Lý Hằng, mẹ Ý An Hoàng hậu Quách thị.

Bành Thành Quận vương → Thâm vương Lý Tông [深王李悰], bổn danh Lý Sát (李察).

Cao Mật Quận vương → Dương vương Lý Hãn [洋王李忻; 801 - 828], bổn danh Lý Hoàn (李寰).

Văn An Quận vương → Giáng vương Lý Ngộ [絳王李悟; ? - 827], bổn danh Lý Liêu (李寮).

Kiến vương Lý Khác [建王李恪; 805 - 821], bổn danh Lý Thẩm (李審).

Phu vương Lý Cảnh [鄜王李憬].

Quỳnh vương Lý Duyệt [琼王李悦].

Miện vương Lý Tuân [沔王李恂], mẹ Đỗ Cung nhân.

Vụ vương Lý Dịch [婺王李怿].

Mậu vương Lý Âm [茂王李愔], mẹ Triệu Cung nhân.

Quang vương → Đường Tuyên Tông Lý Thục, mẹ Hiếu Minh Hoàng hậu Trịnh thị.

Truy vương Lý Hiệp [淄王李恊].

Hành vương Lý Đản [衡王李憺].

Thiền vương Lý Sung [澶王李㤝].

Lệ vương Lý Chúy [棣王李惴].

Bành vương Lý Dịch [彭王李惕].

Tín vương Lý Đản [信王李憻].

Vinh vương Lý Trách [荣王李㥽].

Hoàng nữ

Lương Quốc Huệ Khang Công chúa (梁国惠康公主), ban đầu là Phổ Ninh Công chúa (普宁公主), lấy Vu Quý Hữu (于季友).

Vĩnh Gia Công chúa (永嘉公主), xuất gia làm Đạo sĩ.

Hành Dương Công chúa (衡阳公主), chết non.

Tuyên Thành Công chúa (宣城公主), lấy Thẩm Nghĩ (沈礒).

Trịnh Quốc Ôn Nghi Công chúa (郑国温仪公主), ban đầu là Phàn Dương Công chúa (汾阳公主), lấy Vi Nhượng (韦让).

Kỳ Dương Trang Thục Công chúa (岐阳庄淑公主), mẹ là Quách Quý phi, lấy Đỗ Tông (杜悰).

Trần Lưu Công chúa (陈留公主), lấy Bùi Tổn (裴损).

Chân Ninh Công chúa (真宁公主), lấy Tiết Hồng (薛翃).

Nam Khang Công chúa (南康公主), lấy Thẩm Phần (沈汾), mất khoảng năm Hàm Thông.

Lâm Chân Công chúa (临真公主), ban đầu là Tương Thành Công chúa (襄城公主), lấy Vệ Chu (卫洙), mất khoảng năm Hàm Thông.

Phổ Khang Công chúa (普康公主), chết non.

Chân Nguyên Công chúa (真源公主), ban đầu là An Lăng Công chúa (安陵公主), lấy Đỗ Trung Lập (杜中立).

Vĩnh Thuận Công chúa (永顺公主), lấy Lưu Hoằng Cảnh (刘弘景).

An Bình Công chúa (安平公主), mẹ là Hiếu Minh Hoàng hậu, lấy Lưu Dị (刘异), mất khoảng năm Càn Phù.

Vĩnh An Công chúa (永安公主), xuất gia làm Đạo sĩ.

Nghĩa Ninh Công chúa (义宁公主), chết non.

Định An Công chúa (定安公主), ban đầu là Thái Hòa Công chúa (太和公主), lấy Sùng Đức Khả hãn (崇德可汗) của Hồi Cốt, phong Khả đôn (可敦). Sau Hồi Hột bị bạo loạn, Công chúa trên đường về Đại Đường thì bị Ô Giới Khả hãn (乌介可汗) cướp mất. Năm 843, Đường Vũ Tông phái quân cướp Công chúa về.

Quý Hương Công chúa (贵乡公主), chết non.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường
**Duệ Chân Thẩm Hoàng hậu** (chữ Hán: 睿真沈皇后; _không rõ năm sinh năm mất_), là thiếp của Đường Đại Tông khi còn là Quảng Bình vương, đồng thời là sinh mẫu của Đường Đức Tông
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Đường Văn Tông Dương Hiền phi** (chữ Hán: 唐文宗楊賢妃, ? - 12 tháng 12 năm 840), là phi tần của Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc. Dương Hiền phi có ảnh hưởng lớn
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Mạc Hiến Tông** (chữ Hán: 莫憲宗 1517 – 1546) là vị hoàng đế thứ ba của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ năm 1540 đến 1546 và chỉ dùng một niên
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Vi Hiền phi** (chữ Hán:韦贤妃, ? - 809), là phi tần của Đường Đức Tông Lý Quát. Bà nổi tiếng vì việc thờ cúng chồng mình cho đến tận khi qua đời. ## Đường triều
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Vương Tài nhân** (chữ Hán: 王才人, ? - 846), còn được gọi là **Vũ Tông Vương Hiền phi** (武宗王賢妃), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Vũ Tông Lý Viêm trong lịch
**Nguyên Hiến Dương hoàng hậu** (chữ Hán: 元獻楊皇后; 699 - 729), cũng thường gọi **Dương Quý tần** (楊貴嬪), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ và là sinh mẫu của Đường
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Hiến Tông** (chữ Hán: 憲宗 hoặc 獻宗) là miếu hiệu của một số vị vua của Việt Nam, Triều Tiên và Trung Quốc. ## Việt Nam *Trần Hiến Tông *Lê Hiến Tông *Mạc Hiến Tông
**Đường Kính Tông Quách Quý phi** (chữ Hán: 唐敬宗郭貴妃), là một phi tần của Đường Kính Tông trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ ngày sinh và tên thật của Quách quý
**Đường Hy Tông** (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy **Lý Huyên** (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Dương Hiến Dung** (chữ Hán: 羊獻容, ? - 322), người huyện Nam Thành, quận Thái Sơn, là hoàng hậu của hai vị hoàng đế là Tấn Huệ Đế của nhà Tây Tấn và Lưu Diệu
**Hòa Tư Hoàng hậu** (chữ Hán: 和思皇后; ? - 7 tháng 5, 675), là nguyên phối của Đường Trung Tông Lý Hiển. Do đắc tội với mẹ Trung Tông là Võ Tắc Thiên, bà bị
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Chương Kính Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 章敬吳皇后; ? - 730), thông xưng **Ngô phu nhân** (吳夫人), là cơ thiếp của Đường Túc Tông Lý Hanh khi ông còn là Thái tử. Bà được biết
**Đường Ý Tông Quách Thục phi** (chữ Hán: 唐懿宗郭淑妃; _không rõ năm sinh năm mất_) là một phi tần rất được sủng ái của Đường Ý Tông Lý Thôi trong lịch sử Trung Quốc. Bà
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Hiếu Mục Kỷ Thái hậu** (chữ Hán: 孝穆紀太后; 1451 - 1475), cũng gọi **Kỷ Thục phi** (紀淑妃) hoặc **Hiếu Mục Hoàng hậu** (孝穆皇后), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm và
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Trang Hiến Vương Thái hậu** (chữ Hán: 莊憲王太后, 763 – 5 tháng 4, 816), cũng gọi **Trang Hiến hoàng hậu** (莊憲皇后), là vợ thứ của Đường Thuận Tông Lý Tụng và mẹ đẻ của Đường
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Liễu Tông Nguyên** (chữ Hán: 柳宗元,773-819), tự _Tử Hậu_, là nhà văn, nhà thơ thời trung Đường, Trung Quốc. ## Tiểu sử **Liễu Tông Nguyên**, người Hà Đông, nay thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn
**Tống Nhược Chiêu** (chữ Hán: 宋若昭; 761 - 828) là một nữ quan nổi tiếng của triều đại nhà Đường. Theo Đường thư ghi lại, Tống thị vào cung nhà Đường trải qua các chức
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Vương Thừa Tông** (chữ Hán: 王承宗, bính âm: Wang Chengzong, 788 - 820), là Tiết độ sứ Thành Đức dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi kế nhiệm cha là Vương