✨Đường Chiêu Tông

Đường Chiêu Tông

Đường Chiêu Tông (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh Lý Kiệt (李傑), sau cải thành Lý Mẫn (李敏), rồi Lý Diệp (李曄), là hoàng đế áp chót của nhà Đường. Ông trị vì từ năm 888 đến 904, bị gián đoạn khi hoạn quan Lưu Quý Thuật buộc ông thoái vị trong vài tháng vào năm 900-901. Đường Chiêu Tông là hoàng tử thứ 7 của Đường Ý Tông và là em của Đường Hy Tông.

Trong thời gian Đường Chiêu Tông trị vì, Đại Đường tiếp tục chìm trong tình trạng rối loạn vốn đã bắt đầu dưới triều đại của Đường Hy Tông, quyền lực của triều đình Trung ương trên thực tế đã không còn. Đường Chiêu Tông đã cố gắng phục hưng vương triều, tái khẳng định quyền lực của hoàng đế, song thường là phản tác dụng. Đường Chiêu Tông đã thất bại khi chống lại Lý Khắc Dụng, Trần Kính Tuyên, và Lý Mậu Trinh. Cuối cùng, quân phiệt Chu Toàn Trung trở thành người khống chế triều đình Đường, sang năm 904 thì sát hại Đường Chiêu Tông nhằm chuẩn bị cướp ngôi.

Thân thế

Lý Kiệt sinh năm 867, dưới triều đại của vua cha Đường Ý Tông, ở phía đông hoàng cung tại Trường An. (Do Lý Kiệt cũng được ghi là 'mẫu đệ' của Đường Hy Tông, đại đô đốc, Lư Long tiết độ sứ.) Lý Kiệt đặc biệt thân cận với Đường Hy Tông, ông đã theo Đường Hy Tông chạy khỏi Trường An nhằm tránh quân khởi nghĩa nông dân do Hoàng Sào lãnh đạo vào năm 880. Trong lần trốn chạy này, Lý Kiệt mới 14 tuổi âm, ông kiệt sức và yêu cầu Tả Thần Sách trung úy Điền Lệnh Tư trao cho một con ngựa; Điền Lệnh Tư từ chối và đánh Lý Kiệt, buộc phải đi tiếp. Sau đó, Lý Kiệt oán hận sâu sắc Điền Lệnh Tư. tiết độ sứ Cố Ngạn Lãng đề xuất bãi chức Tây Xuyên tiết độ sứ Trần Kính Tuyên (thân thích của Điền Lệnh Tư). vì thế hạ chiếu triệu Trần Kính Tuyên trở về Trường An và bổ nhiệm tể tướng Vi Chiêu Độ đi thay thế. Khi Trần Kính Tuyên từ chối tuân chỉ, Đường Chiêu Tông liền bổ nhiệm Vi Chiêu Độ là "Hành doanh chiêu thảo sứ", cùng với Vương Kiến và Cố Ngạn Lãng và Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ Dương Thủ Lượng tiến công Trần Kính Tuyên. tiết độ sứ Tần Tông Quyền đã xưng đế tại Thái châu- thủ phủ của Phụng Quốc- vào năm 885 và khiển binh tiến đánh các quân lân cận của Đường. tiết độ sứ Chu Toàn Trung, và đến năm 888 thì Tần Tông Quyền bị thuộc hạ là Thân Tùng (申叢) lật đổ.

Mặc dù Dương Phục Cung có công đưa Đường Chiêu Tông làm hoàng đế, song đến năm 889 thì bắt đầu có xung đột giữa họ, dẫn đến một cuộc tranh luận công khai giữa Dương Phục Cung và Khổng Vĩ khi Khổng Vĩ buộc tội Dương Phục Cung bất kính với hoàng đế. Trương Tuấn chủ trương hoàng đế cần có một đội quân hùng mạnh để phục hồi quyền lực trước các quân phiệt và Thần Sách quân do các hoạn quan chỉ huy, Đường Chiêu Tông do vậy bắt đầu tuyển quân và số lượng binh sĩ đã lên tới 10 vạn vào mùa xuân năm 890. tiết độ sứ Lý Khắc Dụng, và khi đó Chu Toàn Trung cũng thỉnh cầu triều đình chinh phạt Lý Khắc Dụng. Đường Chiêu Tông chấp thuận, và đến mùa hè năm 890 thì tiến hành chiến dịch, quân của Chu Toàn Trung tiến công Chiêu Nghĩa quân từ phía đông nam; Lý Khuông Uy và Đại Đồng tiết độ sứ Hách Liên Đạc tiến công từ đông bắc; đại quân triều đình do Trương Tuấn thống soái tiến công từ phía tây nam. tiết độ sứ Hàn Kiến chạy thoát chỉ với một đội quân nhỏ. Sau đó Lý Khắc Dụng đe dọa tiến công, Đường Chiêu Tông buộc phải phục chức tước cho Lý Khắc Dụng và đưa Trương Tuấn cùng Khổng Vĩ đi lưu đày. tiết độ sứ Lý Mậu Trinh cùng với các đồng minh là Tĩnh Nan tiết độ sứ Vương Hành Du, Hàn Kiến, cũng như Thiên Hùng tiết độ sứ Lý Mậu Trang (李茂莊) và Khuông Quốc tiết độ sứ Vương Hành Ước (王行約) hợp binh dưới quyền thống soái của Lý Mậu Trinh, đề xuất được tiến công họ Dương. Mặc dù xem họ Dương là kẻ thù, song Đường Chiêu Tông lo sợ rằng nếu Lý Mậu Trinh đánh bại được họ Dương thì triều đình sẽ khó có thể kiểm soát được người này, vì thế thoạt đầu ông bác bỏ đề xuất. Tuy nhiên, Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du vẫn tiến công, Đường Chiêu Tông lo sợ rằng Lý Mậu Trinh sẽ tự ý đồ sát người dân Sơn Nam Tây đạo nên đã buộc phải lập Lý Mậu Trinh làm thống soái chiến dịch chống họ Dương. Vào mùa đông năm 892, Hưng Nguyên thất thủ, họ Dương chạy trốn song sau đó đã bị Hàn Kiến bắt giữ và bị đưa đến Trường An để xử tử.

Lý Mậu Trinh muốn hợp nhất Sơn Nam Tây đạo vào lãnh địa của mình, vì thế đã thỉnh cầu được giữ chức tiết độ sứ của quân này, kỳ vọng rằng Đường Chiêu Tông sẽ để ông ta làm tiết độ sứ của cả Phượng Tường và Sơn Nam Tây đạo. Tuy nhiên, Đường Chiêu Tông lại hạ chỉ bổ nhiệm Lý Mậu Trinh là tiết độ sứ của Sơn Nam Tây đạo và Vũ Định, trong khi bổ nhiệm tể tướng Từ Ngạn Nhược làm Phượng Tường tiết độ sứ. Lý Mậu Trinh sau đó thượng biểu với lời lẽ ngạo mạn cho Đường Chiêu Tông để chế nhạo hoàng đế không thể đánh bại họ Dương và không thể kiểm soát nổi các tiết độ sứ. Đường Chiêu Tông nổi giận và quyết định chuẩn bị tiến hành một chiến dịch chống lại Lý Mậu Trinh, bất chấp phân tích của tể tướng Đỗ Nhượng Năng rằng triều đình lúc này không có đủ sức mạnh để đánh bại Lý Mậu Trinh. Vào mùa thu năm 893, Đường Chiêu Tông phát động chiến dịch tiến công Lý Mậu Trinh, lệnh Đỗ Nhượng Năng phụ trách hậu cần, phái Đàm vương Lý Tự Chu (李嗣周) thống lĩnh 3 vạn quân hộ tống Từ Ngạn Nhược đến Phượng Tường. Tuy nhiên, đội quân của triều đình do mới hình thành nên có sĩ khí yếu kém và ít kinh nghiệm chiến đấu, và liền tan ra khi đối đầu với đội quân của Vương Hành Du. Lý Mậu Trinh tiến sát Trường An, yêu cầu Đỗ Nhượng Năng phải bị giết, Đường Chiêu Tông đành buộc Đỗ Nhượng Năng tự sát và cho phép Lý Mậu Trinh cai quản Phượng Tường, Sơn Nam Tây đạo, Vũ Định và Thiên Hùng. Sau thời điểm này, Lý Mậu Trinh cùng Vương Hành Du liên minh với tể tướng Thôi Chiêu Vĩ, và có ảnh hưởng rất lớn đến việc xử lý quốc sự, hoàng đế sẽ không thể thực hiện phương sách nào mà họ phản đối., tiết độ sứ Vương Trọng Doanh qua đời, Vương Kha (王珂) và Vương Củng (王珙) tranh giành quyền kế nhiệm. Lý Khắc Dụng ủng hộ Vương Kha; còn Lý Mậu Trinh, Vương Hành Du và Hàn Kiến thì ủng hộ Vương Củng, họ đều thượng biểu cho Đường Chiêu Tông. Đường Chiêu Tông thuận theo ý của Lý Khắc Dụng và bổ nhiệm Vương Kha là Hộ Quốc tiết độ sứ. Đáp lại, Lý Mậu Trinh, Vương Hành Du và Hàn Kiến lại tiến vào kinh thành, giết chết Vi Chiêu Độ và Lý Hề vì họ cho hai người này đứng sau quyết định của Đường Chiêu Tông.

Lý Khắc Dụng phản ứng mạnh mẽ trước hành động này, ông ta đem quân của mình vượt Hoàng Hà, chuẩn bị tiến công Lý-Vương-Hàn. Xuất hiện tin đồn rằng Lý Mậu Trinh và Vương Hành Du đều muốn bắt Đường Chiêu Tông để đưa về lãnh địa của họ, Đường Chiêu Tông vì thế đã cùng các quan lại chạy trốn vào Tần Lĩnh, người dân Trường An lũ lượt theo sau. Trong khi đó, Lý Khắc Dụng đánh bại quân của Vương Hành Du và Lý Mậu Trinh, bao vây thủ phủ Bân châu (邠州) của Vương Hành Du, Vương Hành Du chạy trốn và bị thuộc hạ giết chết. Lý Mậu Trinh và Hàn Kiến quy hàng, thỉnh tội và triều cống cho Đường Chiêu Tông. Đường Chiêu Tông trở về Trường An, khao thưởng lớn Lý Khắc Dụng và thuộc hạ, song khi Lý Khắc Dụng đề xuất tiến công Lý Mậu Trinh, Đường Chiêu Tông lo sợ nếu Lý Mậu Trinh bị diệt thì Lý Khắc Dụng sẽ không còn đối trọng, do vậy không chuẩn thuận. Lý Khắc Dụng rút về Hà Đông, và sau đó không còn trở lại Quan Trung. Nội dung của sắc lệnh là công nhận Đại Vĩ Hài là vua của vương quốc Bột Hải.

Chạy đến Hoa châu

Đường Chiêu Tông nỗ lực tái thiết quân đội triều đình và giao quyền chỉ huy cho các thân vương, bao gồm Đàm vương Lý Tự Chu, Diên vương Lý Giới Phi, và Thông vương Lý Tư. Tuy nhiên, Lý Mậu Trinh lo ngại trước diễn biến này, đến mùa hè năm 896, ông ta lại tiến công vào Trường An. Đường Chiêu Tông ngay lập tức cầu viện Lý Khắc Dụng, song Lý Khắc Dụng nay không thể cứu viện. Quân của Lý Mậu Trinh đánh bại quân của Lý Tự Chu, Lý Tự Chu sau đó đề xuất chạy đến Hà Đông. Đường Chiêu Tông thoạt đầu chấp thuận và chuẩn bị tiến đến Phu châu, dự tính vượt Hoàng Hà sang Hà Đông tại đây; ông cũng khiển Lý Giới Phi đến Hà Đông chuẩn bị. Tuy nhiên, sau khi Đường Chiêu Tông dời khỏi Trường An, Hàn Kiến đã phái sứ giả đến và sau đó đích thân đến gặp ông, thuyết phục ông đến Hoa châu (華州)- thủ phủ của Trấn Quốc do Hàn Kiến kiểm soát, hứa hẹn sẽ dốc hết sức mình để duy trì quyền lực của hoàng đế. Do cả Đường Chiêu Tông và các triều sĩ đều lo lắng trước hành trình xa xôi nếu muốn tới Hà Đông, Đường Chiêu Tông chấp thuận đến Hoa châu.

Lúc này vua Nam Chiếu là Mông Long Thuấn bị Dương Đăng sát hại vào năm 897, Mông Thuấn Hóa Trinh lên kế vị. Thanh bình quan Trịnh Mãi Tự chuyên quyền ở Nam Chiếu khiến vua Mông Thuấn Hóa Trinh phái sứ giả kế tục sang nhà Đường thỉnh cầu hòa hiếu song vua Đường Chiêu Tông không đồng ý.

Đường Chiêu Tông thiết lập hòa bình với Lý Mậu Trinh vào mùa xuân năm 898, phục hồi quan tước cho Lý Mậu Trinh. Do Chu Toàn Trung đề xuất dời kinh thành đến đông đô Lạc Dương, Hàn Kiến và Lý Mậu Trung lo sợ rằng Chu Toàn Trung sẽ phái quân đến bắt hoàng đế, do đó họ cho sửa chữa cung điện và các công thự tại Trường An mà trước đó bị quân của Lý Mậu Tỉnh phá hoại. Vào mùa thu năm 898, Đường Chiêu Tông trở về Trường An, song nay quanh ông chỉ còn Thần Sách quân do các hoạn quan quản lý. và cũng liên kết với Chu Toàn Trung. Vào năm 900 Đường Chiêu Tông đã cùng với Thôi Dận lập kế hoạch đồ sát các hoạn quan. Khi tể tướng Vương Đoàn bày tỏ chống lại hành động như vậy vì cho rằng nó quá mạnh tay, Thôi Dận đã buộc tội Vương Đoàn liên kết với các hoạn quan có uy quyền là xu mật sứ Chu Đạo Bật (朱道弼) và Cảnh Vụ Tu (景務脩). Nhận được cáo buộc của Thôi Dận, Đường Chiêu Tông đã hạ chiếu buộc Vương Đoàn, Chu Đạo Bật và Cảnh Vụ Tu phải tự sát, Thôi Dận từ thời điểm đó trở thành nhân vật đứng đầu trong triều đình, các hoạn quan tức giận và lo sợ ông ta. Mùa thu năm 902, Chu Toàn Trung dùng kế dụ Lý Mậu Trinh đưa quân ra khỏi thành để tiêu diệt, và đến mùa đông thì Phượng Tường lâm vào tình thế tuyệt vọng. Sang mùa xuân năm 903, Lý Mậu Trinh cầu hòa với Chu Toàn Trung, giao hoàng đế Đường Chiêu Tông và hoàng gia cho Chu Toàn Trung và giết chết Hàn Toàn Hối cùng các hoạn quan đứng đầu khác. Chu Toàn Trung đưa Đường Chiêu Tông trở về Trường An, rồi tiến hành đồ sát các hoạn quan còn lại, kể cả những người không ủng hộ Hàn Toàn Hối, điều này trên thực tế đã khiến Thần Sách quân tan rã..

  • Hậu phi:

    Tích Thiện hoàng hậu Hà thị (積善皇后何氏, ? - 905), người Đông Thục. Trong năm Càn Ninh, được lập làm Hoàng hậu. Hạ sinh Lý Dụ, Lý Tộ và Bình Nguyên công chúa. Sau bị Hậu Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung giết hại cả nhà.

    Ngụy quốc phu nhân Trần thị, sau là phi tần của Lý Khắc Dụng.

    Tấn quốc phu nhân Khả Chứng (可證), bị Chu Toàn Trung giết năm 904.

    Phu nhân Bùi Trinh Nhất (裴貞一), bị Chu Toàn Trung giết năm 904.

    Chiêu nghi Lý Tiệm Vinh (李漸榮), bị Chu Toàn Trung giết năm 904.

Hoàng tử

  • Lý Hựu (李祐), năm 897 sau cải thành Lý Dụ (李裕), trong giai đoạn 900-9001 cải thành Lý Chẩn (李縝), phong Đức vương năm 890, phong hoàng thái tử năm 897, trở thành hoàng đế vào năm 900-901, bị phế làm Đức vương năm 901, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Vũ (李祤), phương Đệ vương năm 894, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Hễ (李禊), phong Kiền vương năm 894, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Yên (李禋), phong Nghi vương năm 894, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Y (李禕), phong Toại vương năm 894, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Bí (李秘), phong Cảnh vương năm 897, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Kì (李祺), phong Kì vương ănm 897, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Chân (李禛), phong Nhã vương năm 898, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Tộ (李祚), năm 904 cải thành Lý Chúc (李柷), phong Huy vương năm 897, trở thành thái tử rồi hoàng đế năm 904
  • Lý Tường (李祥), phong Quỳnh vương năm 898, bị Chu Toàn Trung giết năm 905
  • Lý Trinh (李禎), phong Đoan vương năm 904
  • Lý Kì (李祁), phong Phong vương năm 905
  • Lý Phúc (李福), phong Hòa vương năm 905
  • Lý Hi (李禧), phong Đăng vương năm 905
  • Lý Hỗ (李祜), phong Gia vương năm 905
  • Lý Đề (李禔), phong Dĩnh vương năm 906
  • Lý Hựu (李祐), phong Thái vương năm 906

    Công chúa

  • Tân An công chúa
  • Bình Nguyên công chúa, kết hôn với Lý Kế Khản (李继偘)
  • Tín Đô công chúa
  • Ích Xương công chúa
  • Đường Hưng công chúa
  • Đức Thanh công chúa
  • Thái Khang công chúa
  • Vĩnh Minh công chúa, mất sớm
  • Tân Hưng công chúa
  • Phổ An công chúa
  • Lạc Bình công chúa
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Hy Tông** (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy **Lý Huyên** (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Chiêu Tông** (chữ Hán: 昭宗) là miếu hiệu của một số vị vua trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc. ## Việt Nam *Lê Chiêu Tông ## Trung Quốc *Đường Chiêu Tông Lý Diệp,
**Đường Văn Tông Dương Hiền phi** (chữ Hán: 唐文宗楊賢妃, ? - 12 tháng 12 năm 840), là phi tần của Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc. Dương Hiền phi có ảnh hưởng lớn
**Viên Chiếu Tông Bản** (圓照宗本; ?-1099) là thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Vân Môn, môn đệ đắc pháp của thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài. Nối pháp của ông có bốn vị danh tiếng
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Duệ Chân Thẩm Hoàng hậu** (chữ Hán: 睿真沈皇后; _không rõ năm sinh năm mất_), là thiếp của Đường Đại Tông khi còn là Quảng Bình vương, đồng thời là sinh mẫu của Đường Đức Tông
**Hòa Tư Hoàng hậu** (chữ Hán: 和思皇后; ? - 7 tháng 5, 675), là nguyên phối của Đường Trung Tông Lý Hiển. Do đắc tội với mẹ Trung Tông là Võ Tắc Thiên, bà bị
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 张昭, 894 – 972), tự **Tiềm Phu**, người huyện Phạm, Bộc Châu . Ông là sử quan đã hoạt động gần trọn đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống, phục
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Vi Chiêu Độ** (, ? - 4 tháng 6 năm 895), tên tự **Chính Kỉ** (正紀), là một quan lại nhà Đường. Ông từng giữ chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường
**Trương Tuấn** (張濬, ? - 20 tháng 1 năm 904), tên tự **Vũ Xuyên** (禹川), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường Hy
**Dương Phục Cung** (, ? - 894), tên tự **Tử Khác** (子恪), là một hoạn quan nhà Đường. Ông đóng vai trò chủ chốt trong triều đình của Đường Hy Tông và Đường Chiêu Tông.
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Thôi Chiêu Vĩ** (, ? - 896), tên tự **Uẩn Diệu** (蘊曜), là một quan lại triều Đường, từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Chiêu Tông. Theo sách sử cổ, ông
**Dương Hành Mật** (, 852 – 24 tháng 12 năm 905), nguyên danh **Dương Hành Mẫn** (楊行愍, đổi tên năm 886), tên tự **Hóa Nguyên** (化源) là người giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Đường Ai Đế** (chữ Hán: 唐哀帝, 892 – 908), cũng gọi là **Chiêu Tuyên Đế** (昭宣帝), nguyên danh **Lý Tộ** (李祚), sau cải thành **Lý Chúc** (李柷), là vị Hoàng đế cuối cùng của nhà
Kem Dưỡng Nâng Tông Trắng Hồng Da G9 Skin White In Milk Whipping Cream (50g)Kem Dưỡng Nâng Tông Trắng Hồng Da G9 Skin White In Milk Whipping Cream (50g)làsự kết hợp hoàn hảo của các
**Dương Bảo Tông** (chữ Hán: 杨保宗, ? – 443), tên khác là **Khương Nô** (羌奴), người dân tộc Đê, thủ lĩnh nước Cừu Trì vào đời Nam Bắc triều, kế vị vào năm 429 nhưng
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
**Lưu Phần** (chữ Hán: 刘蕡, ? – ?), tự **Khứ Hoa**, người Xương Bình, U Châu , danh sĩ ở giai đoạn trung kỳ đời Đường. ## Cuộc đời Phần ngụ cư ở khoảng Biện,
**Dương Chiêu** (, 584 - 606), tước vị lúc sống là **Nguyên Đức Vương**. Ông là con trai của Tùy Dạng Đế Dương Quảng, do ông mất sớm hơn cha mình, nên sau này Dương
**Lưu Khiêm** () hay **Lưu Tri Khiêm** () (? - 894), được Nam Hán truy tôn là **Thánh Vũ hoàng đế** (聖武皇帝) và miếu hiệu **Đại Tổ** (代祖), là một sĩ quan tại Thanh Hải
**Nam Chiếu quốc** (chữ Hán: 南詔國), cũng gọi **Đại Lễ** (大禮), người Thổ Phồn gọi **ljang yul** (tiếng Tạng: ), là một vương quốc của người Bạch, người Miêu và người Di (người Lô Lô),
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều