✨Đường Mục Tông

Đường Mục Tông

Đường Mục Tông (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật Lý Hằng (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được 4 năm.

Trong sử sách, Mục Tông là một vị Hoàng đế không quan tâm đến triều đình, chỉ ham vui chơi và đắm chìm trong tửu sắc. Các Tiết độ sứ ở Hà Bắc tam trấn đã quy phục dưới thời Đường Hiến Tông nhân cơ hội đó cũng vùng lên trở lại, uy hiếp đến triều đình. Còn trong nội bộ triều đình, hoạn quan lộng quyền, nạn tham ô tràn lan, nhà Đường bước vào thời kì suy vong.

Thân thế

Đường Mục Tông bổn danh Lý Hựu (李宥), chào đời vào tháng 7 ÂL năm Trinh Nguyên thứ 11 (795), dưới thời tằng tổ là Đường Đức Tông Lý Quát tại biệt điện Đại Minh cung, còn thân phụ Đường Hiến Tông Lý Thuần là Quảng Lăng Quận vương (广平郡王). Mẹ ông là Quận vương phi Quách thị, con gái của Thăng Bình Công chúa, cháu ngoại Đường Đại Tông Lý Dự, cháu nội của Quách Tử Nghi, thân phận cực kì tôn quý.

Trong những năm Trinh Nguyên thời Đường Đức Tông, Lý Hựu được phong làm Kiến An Quận vương (建安郡王). Năm 805, Đức Tông giá băng, Thuận Tông nối ngôi. Bảy tháng sau Thuận Tông bị hoạn quan ép phải thoái vị, trở thành Thái thượng hoàng, Thái tử Lý Thuần nối ngôi, tức là Đường Hiến Tông. Trong năm 806, Kiến An vương Lý Hựu được tiến phong làm Toại vương (遂王), sau được phong Diêu Lĩnh Chương Nghĩa quân Tiết độ sứ; còn Quách thị được tấn phong làm Quý phi. Mặc dù là Chính thê nhưng Quách thị không được Hiến Tông lập làm Chính cung Hoàng hậu vì Hiến Tông cho rằng Quý phi đã có thế lực lớn bên nhà mẹ, nếu phong Hậu thì các phu nhân khác sẽ e ngại mà không dám tiếp cận, nên vẫn để trống ngôi Hậu đến tận khi qua đời.

Tuy là con của vợ đích nhưng ban đầu Lý Hựu không được chọn làm Thái tử mà người được phong là huynh trưởng của ông, Lý Ninh. Đến năm 811, Thái tử Lý Ninh qua đời, theo thứ tự thì Hoàng tử thứ hai là Lễ vương Lý Khoan (李寬) lên làm Thái tử, nhưng triều thần lại đề nghị lập Hoàng đích tử Lý Hựu. Do đó, Hiến Tông sách phong Toại vương Lý Hựu làm Thái tử vào năm 812, và đổi tên thành Lý Hằng (李恆). Ban đầu Hiến Tông muốn đại thần Thôi Quần soạn biểu nhân danh Lý Khoan nhường ngôi Thái tử cho em, nhưng Thôi Quần cho rằng Lý Hằng là con của vợ đích nên vẫn được ưu tiên hơn là con của cung tần. Đường Hiến Tông đồng ý.

Thái tử triều Đường

Đường Thư không ghi nhận nhiều về những hành trạng của Lý Hằng lúc làm Thái tử. Còn theo Tư trị thông giám, quyển 240 thì vào 817, đại thần Vi Thụ được cử làm Sư phó cho Lý Hằng, nhưng lại thường bày những trò hài hước và khuyến khích sự xa xỉ của ông, nên Hiến Tông sinh ra ác cảm với Vi Thụ. Cuối cùng Vi Thụ bị đuổi khỏi triều đình và bị đầy đến Kiền Châu.

Trong triều, hoạn quan Thổ Đột Thừa Thôi có âm mưu phế ngôi Thái tử của Lý Hằng để đưa Lễ vương Lý Khoan (sau đổi tên là Lý Uẩn) làm Hoàng thái tử nhưng Hiến Tông không đồng tình. Vào đầu năm 820, do ảnh hưởng của việc uống quá nhiều đơn dược, tính tình của Hiến Tông trở nên khắc nghiệt và sức khỏe cũng ngày một yếu đi, Thổ Đột Thừa Thôi gấp rút chuẩn bị việc phế lập sau này. Lý Hằng do đó rất bất an cho tương lai của mình vì Thừa Thôi nắm nhiều binh quyền trong tay. Ông hỏi cữu phụ là Đại tư nông Quách Chiêu để tìm một lời khuyên, Quách Chiêu cho rằng ông chỉ cần tỏ vẻ hiếu thảo và tận tâm với Phụ hoàng, còn những việc khác không đáng ngại.

Do tính tình của Hiến Tông thất thường, nên các hoạn quan thường bị vua sai đánh đập dã man hoặc giết chết chỉ vì những lỗi nhỏ, do đó chúng cảm thấy rất bất an. Ngày 14 tháng 2 năm 820 (Canh Tí), Hiến Tông đột nhiên băng hà tại điện Trung Hòa, hưởng dương 43 tuổi. Nguyên nhân cái chết này được cho là do hoạn quan Trần Hoằng Chí hạ độc.

Thổ Đột Thừa Thôi thấy Hiến Tông đã chết, liền tập hợp thế lực chuẩn bị đưa Lễ vương Uẩn lên ngôi. Trung úy Lương Thủ Khiêm cùng các hoạn quan Mã Tiến Đàm, Lưu Thừa Giai, Vi Nguyên Tố, Vương Thủ Trừng hợp sức cùng nhau tôn phò Lý Hằng, sau đó giết Thổ Đột Thừa Thôi cùng Lễ vương Uẩn. Lý Hằng bèn đem vàng bạc ra thưởng cho đội quân Thần Sách (do hoạn quan chỉ huy) vì công trợ chúa đăng cơ. Ngày 20 tháng 2 năm 820 (nhằm ngày Bính Ngọ tháng 1 nhuận), Mục Tông tức vị ở điện Thái Cực. Năm đó ông được 26 tuổi, đặt niên hiệu là Trường Khánh (长庆).

Đại Đường Hoàng đế

Tình hình triều chính

Trong lúc Mục Tông đang có tang chưa ra triều chính, hai người thầy cũ của ông là Đoàn Văn Xương, Giá bộ Ngoại lang Đinh Công Trứ và Binh bộ Lang trung Tiết Phóng được tham gia bàn bạc những việc cơ mật. Mục Tông dự định phong họ làm Tể tướng nhưng hai người này từ chối. Nhưng Mục Tông vẫn cho bãi chức của Tể tướng Hoàng Phủ Bác. Triều đình cũng quy cái chết của Hiến Tông là do ngộ độc đan dược, do đó Mục Tông cho giết chết người luyện đan là Liễu Bí.

Ngày Mậu Thân 22 tháng 2, Mục Tông ra triều thân chính. Sau đó ông phong cho hai đại thần Đoàn Văn Xương và Tiêu Phủ giữ chức Trung thư Thị lang, Đồng bình Chương sự (Tể tướng). Đồng thời Mục Tông tôn mẹ là Quách Quý phi làm Hoàng thái hậu. Mục Tông vốn tính đã xa xỉ, đến khi lên ngôi lại dành nhiều thời gian chơi bời săn bắn và uống rượu, không quan tâm triều đình. Nhiều đại thần lên tiếng can ngăn nhưng Mục Tông không nghe. Ngoài ra ông cũng dành rất nhiều vàng bạc trong quốc khố cho việc phụng dưỡng Thái hậu và phong Đỗ Nguyên Dĩnh lên thay làm Tể tướng.

Mùa hạ năm đó, Mục Tông theo lời hẹn cũ của Hiến Tông với Hồi Hột, bèn gả em gái là Thái Hòa Công chúa đến Hồi Cốt. Thổ Phiên nghe tin Khả hãn Hồi Cốt lấy Công chúa nhà Đường bèn đem quân cướp phá Thanh Trại bảo. Hồi Cốt bèn đưa vạn kị đến Bắc Đình giúp nhà Đường chống cự Thổ Phiên và rước Công chúa về nước.

Mùa thu năm đó, theo thỉnh cầu từ quần thần, Mục Tông xưng tôn hiệu Văn Vũ Hiếu Đức Hoàng đế và lại xá thiên hạ. Sang năm 822, khi kết thúc chiến dịch ở Hà Bắc, Mục Tông bãi chức các Tể tướng Thôi Thực rồi phong Nguyên Chẩn làm Đồng bình Chương sự, đồng thời Bùi Độ cũng được triệu về đảm nhận lại tướng vị. Sau đó có người tố cáo Nguyên Chẩn trước kia từng có âm mưu ám sát Bùi Độ. Mục Tông cho điều tra nhưng không có kết quả, rốt cục cả hai người đều bị bãi chức tướng. Bùi Độ bị giáng làm Hữu bộc xạ, còn Nguyên Chẩn làm Thứ sử Đồng châu.

Biến động ở Hà Bắc

Đầu năm 820 vua Bột Hải Tuyên Vương của vương quốc Bột Hải đã tiêu diệt vương quốc Tiểu Cao Câu Ly ở Liêu Đông, đe dọa biên giới đông bắc nhà Đường. Con cháu của Cao Đức Vũ (người sáng lập Tiểu Cao Câu Ly) di chuyển đến phía tây của Liêu Tây rồi bị nhà Đường (đời vua Đường Mục Tông) tiêu diệt cùng năm 820.

Dưới thời Hiến Tông, nạn phiên trấn cát cứ về cơ bản được khống chế bởi các chiến dịch quân sự của nhà Đường, kết quả là sáu trấn lớn bị đánh diệt. Đến khi Mục Tông lên ngôi thì nạn này lại bùng lên, đặc biệt là ba trấn ở vùng Hà Bắc: Thành Đức, Ngụy Bác và Bình Lư, vốn có truyền thống cha truyền con nối. Vào mùa đông năm 820, Tiết độ sứ Thành Đức là Vương Thừa Tông qua đời, các tướng dưới quyền giấu việc không phát tang để tính việc chọn người mới lên thay, không công nhận Tiết độ sứ do triều đình phái đến. Do hai con của Thừa Tông đang làm con tin trong triều nên tham mưu Thôi Toại lấy mệnh lệnh của Lương Quốc Phu nhân (tổ mẫu của Vương Thừa Tông), lập Vương Thừa Nguyên, năm đó 20 tuổi lên tiếp quản trấn Thành Đức Điền Hoằng Chính đến đảm nhận chức Tiết độ sứ ở Thành Đức, dời Vương Thừa Nguyên đến trấn Nghĩa Thành, trấn Ngụy Bác do Lý Tố tiếp quản. Cùng lúc đó lại dời Lưu Ngộ làm Tiết độ sứ Chiêu Nghĩa và Điền Bố (con của Điền Hoằng Chính) là Tiết độ sứ Hà Dương. Sau đó Vương Thừa Nguyên vâng mệnh rời trấn, chư tướng cố giữ lại nhưng không được đành phải chấp nhận. Điền Hoằng Chính sau đó đến tiếp quản trấn Thành Đức. Nhưng Điền lại lo sợ chư tướng ở Thành Đức vẫn hướng về họ Vương chứ không thần phục mình, bèn đem 2000 quân từ trấn Ngụy Bác đến để tự vệ nếu quân lính ở Thành Đức nổi loạn. Sau đó Điền Hoằng Chính xin triều đình cấp lương thực cho 2000 quân này, nhưng triều đình cho rằng quân sĩ Ngụy Bác tình nguyện bỏ trấn nên không có chuyện triều đình phải cấp lương cho. Cuối cùng, Điền Hoằng Chính không đủ quân lương để phân phát nên phải để 2000 quân trở về Ngụy Bác.

Năm 821, Tiết độ sứ Lư Long là Lưu Tổng, người đã sát hại cha và anh (Lưu Tế và Lưu Cổn) vào năm 810), tỏ ra lo sợ khi nhiều lần mộng thấy cha anh hiện về trong giấc mơ, nên muốn từ chức để trở thành nhà sư. Triều đình hạ lệnh phong Lưu Tổng làm Tiết độ sứ Thiên Bình và dời Tiết độ sứ Tuyên Vũ Trương Hoằng Tĩnh đến đảm nhiệm ở trấn Lư Long. Trước khi làm tăng, Lưu Tổng xin triều đình ban thưởng lớn cho tướng sĩ Lư Long để họ trung thành với triều đình và cũng thỉnh cầu cắt Lư Long thành ba đạo nhỏ: ba châu U, Trác, Doanh là một đạo do Trương Hoằng Tĩnh cai quản; bốn châu Bình, Kế, Quy, Đàn do Tiết độ sứ Bình Lư Tiết Bình cai quản; hai châu Doanh và Mạc làm đạo thứ ba sẽ Lư Sĩ Mai làm Quan sát sứ qua một số việc làm như ăn bớt tiền thưởng triều đình gửi đến cho binh sĩ, khai quật quan tài của hai giặc An, Sử (vốn được người dân trong vùng tôn kính) và ép quân lính phải phục dịch quá độ... Đến mùa thu năm 821, tướng thân cận của Trương Hoằng Tĩnh là Vi Ung có va chạm với một người lính, Vi Ung tức giận sai đánh người đó. Quân sĩ Hà Sóc vốn ghét những hành động xấu xa của Vi Ung nên không chấp hành mệnh lệnh này. Ung sai báo với Hoằng Tĩnh, Hoằng Tĩnh ra lệnh bắt giữ những ai kháng lệnh. Quân sĩ bèn hùa nhau nổi loạn, bắt giam Trương Hoằng Tĩnh và một số tướng dưới quyền Hoằng Tĩnh, trong đó có Vi Ung. Đến hôm sau, quân sĩ tỏ ra hối hận vì việc đó, nên đến tạ tội nhưng Hoằng Tĩnh không đáp lại. Quân sĩ bèn quyết định đưa Chu Hồi (cha Chu Khắc Dung) tiếp quản trấn Lư Long, nhưng Hồi từ chối, vì thế quân sĩ đưa Chu Khắc Dung thay Trương Hoằng Tĩnh

Đầu năm 822, quần thần đề nghị Mục Tông nên theo phương sách của Hiến Tông đánh dẹp các trấn khi xưa, có nghĩa là xá tội cho một trấn và đánh một trấn thay vì dồn sức cho cả hai mặt trận. Do đó, Mục Tông xá tội cho Chu Khắc Dung và phong làm Tiết độ sứ Lư Long, đồng thời tiếp tục thảo phạt Vương Đình Thấu nổi dậy chống lại Tiết độ sứ Lý Nguyện. Nhân đêm tối, quân sĩ xông vào chỗ Lý Nguyện, giết vợ ông ta là Đậu thị. Nguyện sợ hãi bèn bỏ trốn sang Trịnh châu. Quân sĩ lập Lý Giới làm Lưu Hậu. Tin này bay về kinh sư, trong triều có nhiều ý kiến khác nhau. các Tể tướng Đỗ Nguyên Dĩnh và Trương Bình Thúc cho rằng nên xoa dịu quân sĩ ở Tuyên Vũ; còn Lý Phùng Cát cho rằng nếu không đánh dẹp thì triều đình sẽ mất luôn quyền kiểm soát khu vực Dương - Hoài. Phùng Cát lại đề nghị nên bãi Lý Giới, lấy Hàn Sung thay thế trấn nhậm ở Tuyên Vũ. Sau đó Mục Tông phong cho Hàn Sung kiêm nhiệm hai trấn Tuyên Vũ, Nghĩa Thành và phong Lý Giới làm Hữu Kim Ngô Tướng quân, Lý không phụng chiếu vào bao vây Tống châu, nhưng bị quân của Hàn Sung, Lý Quang Nhan đánh bại. Sau cùng, quân triều đình cùng với tiến vào Tuyên Vũ. Lý Giới lúc này đã lâm bệnh, bị thủ hạ là Lý Chất giết chết. Sau đó Lý Chất đầu hàng nhà Đường.

Chiến loạn ở An Nam đô hộ phủ

Thời Đường Hiến Tông, ở An Nam đô hộ phủ có người bản địa là Dương Thanh nổi lên chống lại nhà Đường, chiếm thành Tống Bình (nay là Hà Nội, Việt Nam). Đường Hiến Tông đã phái Quế Trọng Vũ sang đánh dẹp, chiếm lại thành Tống Bình, bắt được Dương Thanh và con ông ta là Dương Chí Trinh nhưng Dương Thanh đã vượt ngục. Quế Trọng Vũ giết chết Dương Chí Trinh.

Dương Chí Liệt (con của Dương Thanh) và Đỗ Sĩ Giao rút về Tạc Khẩu (thuộc Yên Mô, Ninh Bình, Việt Nam ngày nay) tiếp tục chống cự với quân Đường của Quế Trọng Vũ đến tháng 7 năm 820 thì bị đánh dẹp hẳn. Mục Tông sai Quế Trọng Vũ đánh Dương Thanh mà không thắng. Mục Tông gọi Quế Trọng Vũ quay về, phái Bùi Hành Lập sang làm An Nam đô hộ thay thế cùng năm 820. Bùi Hành Lập dẫn quân Đường đánh Dương Thanh nhưng vẫn không thắng. Mục Tông không hài lòng, gọi Bùi Hành Lập quay về, phái Vương Thừa Điển sang làm An Nam đô hộ thay thế năm 822. Vương Thừa Điển tiếp tục dân quân Đường đánh Dương Thanh nhưng lại không thắng. Mục Tông nổi giận, gọi Vương Thừa Điển quay về, phái Lý Nguyên Hỷ sang làm An Nam đô hộ thay thế cùng năm 822.

Năm 824, Lý Nguyên Hỷ dời phủ trị vào huyện Long Đỗ, Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, nhưng không thành công.

Dương Thanh lại vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá phủ thành những năm 822 - 826, An Nam đô hộ Lý Nguyên Hỷ đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Động dẫn Hoàn Vương vào cướp.

Qua đời

Đầu năm 823, Mục Tông chơi đá cầu với các hoạn quan trong cung. Lúc đó có viên hoạn quan bất cẩn làm ông ngã ngựa. Mục Tông kinh sợ, từ đó thành bệnh không thể đi lại được nữa. Các Tể tướng nhiều lần xin vào yết kiến cũng không được. Bùi Độ bèn ba lần dâng thư xin lập Thái tử. Đến tháng 12 ÂL, Mục Tông mới ra triều một lần, nhưng chỉ có thể ngồi trên giường mà thôi. Lý Phùng Cát nhân lúc đó xin lập Trữ quân, Bùi Độ cũng tán thành. Mục Tông không thể làm khác, đành hạ chiếu lập Cảnh vương Lý Đam làm Đông cung Hoàng thái tử quan sát sứ đến 8 năm. Do đó Lý Đức Dụ oán hận Ngưu Tăng Nhụ, hai họ Ngưu - Lý cũng kết phái trong triều để chống đối nhau trong mấy mươi năm, sử gọi là Ngưu Lý đảng tranh. Trong lúc đó Lý Phùng Cát liên kết với hoạn quan Vương Thủ Trừng mưu chống lại Bùi Độ, tạo thành một thế lực lớn. Phùng Cát và Thủ Trừng oán ghét Bùi Độ nên bày mưu kiềm chế Độ. Do vậy Bùi Độ bị giáng chức làm Tiết độ sứ Sơn Nam Tây Đạo, mất quyền bình chương sự.

Trong năm 823, bệnh tình của Mục Tông dần thuyên giảm, nhưng đến ngày 23 tháng 2 năm 824 thì bệnh lại tái phát. Đến ngày 25 tháng 2, bệnh trở nặng, bèn hạ chiếu cho Thái tử Lý Đam giám quốc. Các đại thần dâng sớ muốn xin Hoàng thái hậu Quách thị lâm triều xưng chế, nhưng Thái hậu dẫn việc Võ Tắc Thiên mà từ chối. Cùng đêm 25 tháng 2, Mục Tông băng hà ở tẩm điện, thụy hiệu đầy đủ Duệ Thánh Văn Huệ Hiếu Hoàng đế (睿聖文惠孝皇帝). Ngày 29 tháng 2 (Canh Tí), Thái tử Lý Đam lên ngôi, tức Đường Kính Tông.

Gia đình

  • Thân phụ: Đường Hiến Tông Lý Thuần.
  • Thân mẫu: Ý An Hoàng hậu Quách thị (懿安皇后郭氏, ? - 851), con gái Thăng Bình Công chúa và Quách Ái, cháu nội của Quách Tử Nghi.

Hậu phi

Cung Hi Hoàng hậu Vương thị (恭僖皇后王氏, ? - 845), người Việt Châu. Sinh Đường Kính Tông Lý Đam.

Trinh Hiến Hoàng hậu Tiêu thị (貞獻皇后蕭氏, ? - 847), người huyện Mân (Phúc Kiến). Sinh Đường Văn Tông Lý Ngang.

Tuyên Ý Hoàng hậu Vi thị (宣懿皇后韋氏), xuất thân cung nữ. Sinh ra Đường Vũ Tông Lý Viêm.

Võ Quý phi (武貴妃), vốn là Tài nhân (才人), sau được Đường Văn Tông truy tặng Quý phi.

Dương Hiền phi (杨贤妃), sinh ra An vương Lý Dung.

Trương Chiêu nghi (張昭儀).

Trịnh Tài nhân (郑才人).

Hoàng tử

Cảnh vương → Đường Kính Tông Lý Đam, mẹ là Cung Hi Hoàng hậu Vương thị.

Giang vương → Đường Văn Tông Lý Ngang, mẹ là Trinh Hiến Hoàng hậu Tiêu thị.

Không rõ.

Không rõ.

Không rõ.

Chương vương → Sào Huyền công → Tề vương → Hoài Ý Thái tử Lý Thấu [懷懿太子李凑], mẹ không rõ.

Không rõ.

An vương Lý Dung [安王李溶], mẹ là Dương Hiền phi.

Dĩnh vương → Đường Vũ Tông Lý Viêm, mẹ là Tuyên Ý Hoàng hậu Vi thị.

Hoàng nữ

Nghĩa Phong Công chúa (义丰公主), mẹ là Võ Quý phi, lấy Vi Xử Nhân (韦处仁), mất khoảng năm Hàm Thông.

Hoài Dương Công chúa (淮阳公主), mẹ là Trương Chiêu nghi, lấy Liễu Chánh Nguyên (柳正元).

Duyên An Công chúa (延安公主), lấy Đậu Hoán (窦浣).

Kim Đường Công chúa (金堂公主), mẹ là Trịnh Tài nhân, ban đầu phong là Tấn Lăng Công chúa (晋陵公主), lấy Quách Trọng Cung (郭仲恭), mất năm Càn Phù.

Thanh Nguyên Công chúa (清源公主), mắt năm Thái Hòa.

Nhiêu Dương Công chúa (饶阳公主), lấy Quách Trọng Từ (郭仲词).

Nghĩa Xương Công chúa (义昌公主), xuất gia làm Đạo sĩ, mất năm Hàm Thông.

An Khang Công chúa (安康公主), xuất gia làm Đạo sĩ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Vi Hiền phi** (chữ Hán:韦贤妃, ? - 809), là phi tần của Đường Đức Tông Lý Quát. Bà nổi tiếng vì việc thờ cúng chồng mình cho đến tận khi qua đời. ## Đường triều
**Vương Tài nhân** (chữ Hán: 王才人, ? - 846), còn được gọi là **Vũ Tông Vương Hiền phi** (武宗王賢妃), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Vũ Tông Lý Viêm trong lịch
**Đường Kính Tông Quách Quý phi** (chữ Hán: 唐敬宗郭貴妃), là một phi tần của Đường Kính Tông trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ ngày sinh và tên thật của Quách quý
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Mục Tông** (chữ Hán: 穆宗) là miếu hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Hán Mục Tông Lưu Triệu, tại vị 88-105 * Đường Mục Tông Lý Hằng, tại vị 820-824
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
**Tống Nhược Chiêu** (chữ Hán: 宋若昭; 761 - 828) là một nữ quan nổi tiếng của triều đại nhà Đường. Theo Đường thư ghi lại, Tống thị vào cung nhà Đường trải qua các chức
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Lưu Tổng** (chữ Hán: 劉總, bính âm: Liu Zong, ? - 2 tháng 5 năm 821), pháp hiệu **Đại Giác** (大覺), tước hiệu **Sở công** (楚公), là Tiết độ sứ Lư Long dưới thời nhà
**Liêu Mục Tông** (chữ Hán: 遼穆宗; 19 tháng 9 năm 931 - 12 tháng 3 năm 969), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Liêu, cai trị từ năm 951 đến năm 969. Ông
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
**Dương Bảo Tông** (chữ Hán: 杨保宗, ? – 443), tên khác là **Khương Nô** (羌奴), người dân tộc Đê, thủ lĩnh nước Cừu Trì vào đời Nam Bắc triều, kế vị vào năm 429 nhưng
**Chiến tranh Đường – Kucha** là một chiến dịch quân sự dưới sự chỉ huy của tướng nhà Đường Ashina She'er chống lại vương quốc nhỏ Kucha ở lòng chảo Tarim thuộc Tây Vực, gần
**Ngô Thiếu Dương** (? - 29 tháng 9 năm 814), là Tiết độ sứ Chương Nghĩa dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Cựu Đường thư không cho biết rõ
**Đường cong Phillips** là một mô hình kinh tế, được đặt tên theo nhà kinh tế học Alban William Phillips – người đưa ra giả thuyết về mối tương quan giữa việc giảm tỉ lệ
**Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng** (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Đường ven biển Việt Nam** là một tuyến giao thông đường bộ đang được thi công, dài khoảng 3.041 km và cũng là tuyến đường bộ thứ 3 chạy từ Bắc vào Nam Việt Nam sau
nhỏ|phải|Một vị giám mục **Giám mục** hay **vít-vồ** (gốc từ tiếng Bồ Đào Nha: _bispo_) là chức sắc được tấn phong trong một số giáo hội thuộc cộng đồng Kitô giáo, nắm giữ các vị
**Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Latinh: _Archidioecesis Hochiminhopolitana_) còn phổ biến với tên gọi **Tổng giáo phận Sài Gòn**, là một tổng giáo phận Công giáo ở Việt Nam, thuộc Giáo
nhỏ|phải|[[John Adams, Phó Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên]] **Phó Tổng thống Hoa Kỳ** (_Vice President of the United States_) là một người giữ chức vụ công do Hiến pháp Hoa Kỳ tạo ra. Phó
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Hội đồng Giám mục Việt Nam** là hội đồng giám mục của các giám mục Việt Nam. Mục đích của hội đồng là các giám mục Công giáo cùng nhau thi hành chức vụ mục
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.01**) là tên gọi thông dụng nhất của một tuyến đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc của Việt Nam
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó