✨Đường Tuyên Tông
Đường Tuyên Tông (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật Lý Thầm (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 846 đến năm 859, tổng 13 năm.
Trong thời Đường Tuyên Tông, triều đình Đại Đường xuất hiện một thời đại hưng thịnh ngắn ngủi cuối thời Đường được gọi là Đại Trung tạm trị (大中暫治). Trong sử sách, Tuyên Tông cũng được đánh giá là một vị Hoàng đế có lòng trung hưng của nhà Đường, được so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân, gọi là Tiểu Thái Tông (小太宗).
Thân thế
Đường Tuyên Tông bổn danh Lý Di (李怡), là hoàng tử thứ 13 trong số 20 người con trai của Đường Hiến Tông Lý Thuần. Mẹ của ông là Trịnh thị, vốn là vợ lẽ của Tiết độ sứ Lý Kĩ, người bị triều Đường đánh bại và giết chết năm 807. Sau thất bại của Lý Kĩ, cả gia quyến bị bắt sung vào cung làm nô tì, trong đó Trịnh thị được bố trí phục vụ cho Quách Quý phi - chính thất của Hiến Tông, sau đó tình cờ bà được gặp Hiến Tông rồi được sủng hạnh. Ngày 27 tháng 7 năm 810 (nhằm ngày 22 tháng 6 năm Nguyên Hòa thứ 5), Trịnh thị hạ sinh hoàng tử Lý Di ở điện Đại Minh
Năm Trường Khánh nguyên niên thời hoàng huynh Đường Mục Tông Lý Hằng, có chiếu phong vương cho các hoàng tử và hoàng đệ, trong đó Lý Di được phong tước vị Quang vương (光王). Lý Di trong những năm thiếu thời thường tỏ ra nhút nhát và ít nói, người trong cung cho là kém thông minh. Năm được hơn 10 tuổi thì bị bệnh nặng, nguy đến tính mạng, bỗng thấy có hào quang chiếu khắp người, sau đó thì khỏi. Ông thường đối xử với mọi người như là thần liêu của mình, ai cũng cho ông là người có bệnh tâm thần. Mục Tông biết được chuyện, bảo:"Người này là anh vật của nhà ta, không phải là tâm thần bất ổn đâu".
Rồi ban cho ngọc như ý, ngự mã và vàng bạc. Thường mộng thấy rồng bay lên trời, có lúc đem chuyện này nói với mẹ Trịnh thị. Bà bảo:"Những điều này tuyệt đối không được cho người khác hay, nếu không sẽ mang họa"., đồng thời bãi chức tướng của Trịnh Túc, Lý Hồi là các tể tướng thuộc phe đảng của Lý Đức Dụ. Trong những năm tiếp theo, Lý Đức Dụ liên tục bị giáng chức và bị lưu đày các vùng xa xôi. Ngưu Lý đảng tranh từ thời Đường Hiến Tông từ đó chấm dứt. Lý Đức Dụ về sau qua đời trong uất hận tại (851).
Đánh chết đạo sĩ Triệu Quy Chân - người từng luyện đan trường sinh cho Vũ Tông cùng bè đảng. Tháng 5 ÂL, Tuyên Tông hạ chiếu khôi phục lại Phật giáo vốn bị Vũ Tông đàn áp khi trước, chấm dứt pháp nạn Hội Xương. Lấy Hàn lâm học sĩ, Binh bộ thị lang Bạch Mẫn Trung cùng Binh bộ thị lang Lư Thương làm tể tướng mới..
Thời kì cuối (851 - 859)
nhỏ|trái|Trinh lăng, lăng mộ của hoàng đế Tuyên Tông, tọa lạc tại khu vực mà nay là [[Kính Dương, Thiểm Tây, Trung Quốc]] Tuyên Tông được xem là một vị vua cần mẫn và siêng năng trong việc triều chính. Ông muốn theo tấm gương của tổ tiên là Đường Thái Tông Lý Thế Dân để xây dựng nên một nền thịnh thế mới. Ông quan tâm đến việc kiểm tra năng lực của quan lại, nhất là thứ sử có các châu và luôn có phương pháp thưởng phạt rất công minh. Ngoài ra Tuyên Tông còn chủ trương tiết kiệm để tích lũy tiền bạc cho quốc khố, ví dụ như ông tổ chức lễ thành hôn cho con gái mình là Công chúa Vạn Thọ (với Trịnh Hạo) một cách tiết kiệm. Trong suốt triều Tuyên Tông, các thành viên trong hoàng tộc đều chấp hành nghiêm chỉnh pháp chế của triều đình Trong những năm này, sử sách ghi chép rất ít về những sự việc xảy ra trong ngoài triều đình, có lẽ vì nhiều nguồn tài liệu của các sử gia thời kì này đã bị thất lạc nhiều sau đời Ngũ Đại.
Năm 849, tể tướng Ngụy Phù hoăng, có chiếu phong cho Hộ bộ thượng thư Thôi Quỳ lên giữ chức Đồng bình chương sự. Cuối năm này, đại thần Lệnh Hồ Đào cùng Ngụy Mô cũng được đảm nhiệm chức tướng. Khi đó Tuyên Tông tuổi tác đã cao mà chưa lập thái tử, Ngụy Mô dâng sớ xin về việc này nhưng Tuyên Tông vẫn chưa quyết định. Sang đầu năm 852, Thôi Quy bị bãi chức tướng, chuyển sang làm Tiết độ sứ Tuyên Vũ, còn đại thần Bùi Hưu được phong lên làm đồng bình chương sự.
Năm 854, Tuyên Tông hạ chiếu xá tội cho các đại thần Vương Nhai, Thư Nguyên Dư, Giả Tốc bị các hoạn quan vu khống là có tham dự vào sự biến Cam Lộ do Lý Huấn và Trịnh Chú phát động dưới thời Đường Văn Tông (835). Lúc này hoạn quan vẫn nắm rất nhiều quyền lực trong triều, đến cả Tuyên Tông là vua mà cũng không thể khống chế nổi. Ông bàn việc này với đại thần Vi Áo, Áo cho rằng Tuyên Tông nghiêm minh khiến cho hoạn quan phải khiếp sợ chứ không như những vị hoàng đế trước đó, nhưng Tuyên Tông lại bảo mình vẫn còn rất lo ngại bọn hoạn quan. Ông bàn với tể tướng Lệnh Hồ Đào việc tận tru hoạn quan, nhưng Lệnh Hồ Đào cho rằng nếu đại khai sát giới sẽ liên lụy tới người vô tội, và khuyên ông chỉ nên tìm cách hạn chế dần số hoạn quan trong cung. Hoạn quan biết việc này rất oán hận, từ đó hoạn giả, triều sĩ như nước với lửa, không dung nhau. Và sang năm 858, tể tướng Thôi Thận Do bị giáng chức làm Tiết độ sứ Đông Xuyên. Thay vào chức tể tướng là Tiêu Nghiệp cùng Hạ Hầu Tư.
thumb|Bản đồ vương quốc Bột Hải của vua [[Đại Di Chấn|Bột Hải Trang Tông và Đại Kiền Hoảng.]] Năm 857, vua Bột Hải Trang Tông của vương quốc Bột Hải qua đời, kì đệ là Đại Kiền Hoảng lên kế vị. Vua Đại Kiền Hoảng cử một số đoàn sứ thần sang nhà Đường để thông báo việc mình kế vị và bang giao.
Năm 858, Vương Thức được bổ nhiệm là An Nam đô hộ, kinh lược sứ ở An Nam đô hộ phủ. Khi đó, An Nam đô hộ phủ phải chịu các cuộc tiến công liên tiếp của Nam Chiếu (lúc đó mang quốc hiệu Đại Mông, đời vua Mông Khuyến Phong Hữu), do khi trước An Nam đô hộ Lý Trác (李涿) chính tham bạo cường nên người dân An Nam bản địa ủng hộ quân Nam Chiếu xâm nhập. Sau khi Vương Thức đến An Nam, ông này cho dựng cây làm hàng rào ở các thành, do vậy có thể chống trả được các cuộc xâm nhập của Nam Chiếu vào tháng 5 cùng năm 858. tiến công nên đã bao vây quân phủ của Vương Thức, yêu cầu ông rời khỏi An Nam đô hộ phủ trở về phương Bắc, mục đích là để họ có thể phòng thủ thành trước một cuộc tiến công của Dung Quản. Vương Thức từ chối và quở trách, các binh lính này chạy trốn song sau đó bị Vương Thức bắt được và hành quyết. Vương Thức tiếp tục sử dụng các thủ đoạn khác nhau nhằm gây chia rẽ trong gia tộc tù trưởng họ Đỗ - thế lực từ lâu đã chống đối sự cai trị của các An Nam đô hộ của nhà Đường, khiến tù trưởng Đỗ Thủ Trừng (杜守澄) chết trên đường chạy trốn. Theo tường thuật, trong 6 năm liên tiếp trước khi Vương Thức đến, An Nam đô hộ phủ không cống nạp hay nộp thuế cho triều đình nhà Đường, cũng không khao thưởng tướng sĩ, và Vương Thức đã phục hồi lại những việc này sau khi ông bình định khu vực. Do vậy, các vương quốc Hoàn Vương và Chân Lạp láng giềng lại tiếp tục mối quan hệ triều cống của họ với Đại Đường. làm giám quân.
Ngày 7 tháng 9, Tả quân phó sứ Nguyên Thật khuyên Tông Thật nên đến yết kiến Tuyên Tông trước khi rời đi, nhưng khi Tông Thật chưa vào điện thì Tuyên Tông đã băng rồi. Tông Thật nhân đó lật ngược lại thế cờ, giả chiếu chỉ rồi sai Tề Nguyên Giản đón Vận vương vào cung. Ngày Nhâm Thìn (9 tháng 9), Vận vương Lý Ôn được lập làm Hoàng thái tử, đổi tên là Lý Thôi. Vương Quy Trường, Mã Công Nho, Vương Cư Phương bị gán tội rồi bị giết. Ngày Quý Tị (10 tháng 9), tuyên di chiếu cho Lệnh Hồ Đào nhiếp trùng tể. Ngày Bính Thân (13 tháng 9), Lý Thôi tức vị, sử xưng là Đường Ý Tông, an táng tại Trinh lăng (贞陵).
Đánh giá
Triều đại của Tuyên Tông có thể nói là những năm thái bình cuối cùng của triều đại nhà Đường, để rồi sau đó đất nước tiếp tục lún sâu trong loạn lạc rồi chia cắt. Trong những năm ấy và đến tận khi nhà Đường diệt vong, nhân sĩ thiên hạ nhiều người tưởng nhớ đến ông, xưng tụng ông là Tiểu Thái Tông, có ý so sánh với Đường Thái Tông Lý Thế Dân trước đó.
Dưới triều đại Tuyên Tông, người Trung Quốc bắt đầu biết đến và sử dụng pháo hoa.
Gia đình
-
Cha: Đường Hiến Tông Lý Thuần.
-
Mẹ: Hiếu Minh hoàng hậu Trịnh thị (孝明皇后鄭氏, ? - 865), người Đan Dương, Nhuận Châu, từng là thiếp của Tiết độ sứ Trấn Hải là Lý Kĩ (李錡).
-
Hậu phi:
Nguyên Chiêu hoàng hậu Triều thị (元昭皇后晁氏), không rõ xuất thân quê quán. Khi còn trẻ nhập Quang vương phủ, muôn phần sủng ái, Tuyên Tông đăng cơ sơ phong Mỹ nhân. Mất vào những năm Đại Trung. Sinh Đường Ý Tông Lý Thôi, Vạn Thọ công chúa và Quảng Đức công chúa.
Ngô chiêu nghi (吴昭仪).
Trương tiệp dư (张婕妤).
Liễu tiệp dư (柳婕妤).
Lương mỹ nhân (梁美人).
La tài nhân (罗才人).
Sử tài nhân (史才人).
Tiền thị (钱氏), phong Trường Thành quận phu nhân (长城郡夫人).
Tào thị (曹氏), phong Vũ Uy quận phu nhân (武威郡夫人).
Cừu thị (仇氏) (828 - 851), phong Nam An quận phu nhân (南安郡夫人), sinh lần đầu một công chúa, năm Đại Trung thứ 5 (851) sinh một hoàng tử, nhưng chết ngay khi sinh, hưởng dương 24 tuổi, được truy tặng làm Tài nhân (才人)..
-
Hoàng tử:
Vận vương → Đường Ý Tông Lý Thôi, mẹ là Nguyên Chiêu hoàng hậu Triều thị.
Ung vương → Tĩnh Hoài Thái tử Lý Mỹ [靖怀太子李渼; 836 - 852], qua đời truy phong hoàng thái tử.
Nhã vương Lý Kính [雅王李泾; 839 - ?].
Quỳ vương Lý Tư [夔王李滋; 844 - 863], mẹ là Ngô chiêu nghi.
Khánh vương Lý Nghi [庆王李沂; 844 - 860], mẹ là Sử tài nhân.
Bộc vương Lý Trạch [濮王李泽; ? - 876].
Ngạc vương Lý Nhuận [鄂王李潤; ? - 876].
Hoài vương Lý Hiệp [怀王李洽].
Chiêu vương Lý Nhuế [昭王李汭], mẹ là Liễu tiệp dư.
Khang vương Lý Vấn [康王李汶; 851 - 866], mẹ là Cừu tài nhân.
Vệ vương Lý Quán [卫王李灌; ? - 860].
Quảng vương Lý Ung [广王李澭; 854 - 877].
-
Hoàng nữ:
Vạn Thọ công chúa [萬壽公主], mẹ Nguyên Chiêu hoàng hậu, lấy Trịnh Hạo (郑颢). Năm 848, em trai của Trịnh Hạo ốm nặng, Tuyên Tông rất quan tâm, phái người thân tín đi thăm. Người này vào phủ mới thấy công chúa Vạn Thọ mặc kệ nhà chồng có chuyện buồn, vẫn cười cười nói nói, mở tiệc xem diễn tuồng linh đình. Đường Tuyên Tông cực kỳ tức giận, mắng to: "Ta còn trách các bậc sĩ phu không muốn kết thông gia với hoàng tộc, hóa ra tất cả đều có lý do!".
Vĩnh Phúc công chúa [永福公主].
Tề Quốc Cung Hoài công chúa [齊國恭懷公主], ban đầu phong làm Tây Hoa công chúa (西華公主), lấy Diêu Hoành (严祁).
Quảng Đức công chúa [廣德公主; ? - 880], mẹ Nguyên Chiêu hoàng hậu, lấy Vu Tông (于琮).
Hòa Nghĩa công chúa [和義公主], Tân Đường thư viết là Nghĩa Hòa công chúa (義和公主).
Nhiêu An công chúa [饒安公主].
Thịnh Đường công chúa [盛唐公主].
Bình Nguyên công chúa [平原公主; 834 - 863].
Đường Dương công chúa [唐陽公主].
Hứa Xương Trang Túc công chúa [許昌莊肅公主], lấy Liễu Trắc (柳陟), mất khoảng niên hiệu Trung Hòa.
Phong Dương công chúa [豐陽公主].