Đường Hy Tông (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy Lý Huyên (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là Hoàng tử thứ năm của Đường Ý Tông và là anh trai khác mẹ của Đường Chiêu Tông. Trong thời gian ông trị vì, Đại Đường đã bị tàn phá do các cuộc khởi nghĩa nông dân của Vương Tiên Chi và Hoàng Sào. Đến cuối triều đại của Đường Hy Tông, Đại Đường đã hầu như tan rã, các quân phiệt độc lập cai quản lãnh địa của họ, tình trạng này tiếp tục duy trì khi nhà Đường diệt vong vào năm 907.
Thân thế
Đường Hy Tông Lý Huyên, nguyên danh Lý Nghiễm (李儼), sinh ngày 8 tháng 6 năm 862, tức ngày 8 tháng 5 ÂL năm Hàm Thông thứ 3 Năm 865, Lý Nghiễm được phong tước Phổ vương (普王); khi đó, tứ huynh Lý Khản (李侃) của ông được phong tước Dĩnh vương Vương Quý phi qua đời vào năm 866.
Năm 873, Đường Ý Tông lâm trọng bệnh, các hoạn quan chỉ huy Thần Sách quân là Lưu Hành Thâm (劉行深) và Hàn Văn Ước (韓文約) tiến cử Lý Nghiễm kế vị. Sau đó, theo một chiếu chỉ nhân danh Đường Ý Tông, Lý Nghiễm trở thành Hoàng thái tử. của nhà Đường (đời Đường Hy Tông), Tây Xuyên tiết độ sứ Ngưu Tùng (牛叢) không kháng cự nổi. Quân Nam Chiếu tiến đến thủ phủ Thành Đô rồi triệt thoái, song Ngưu Tùng sợ Nam Chiếu sẽ lại tiến công nên đã tập hợp người dân khu vực xung quanh vào trong thành Thành Đô. Đường Hy Tông lệnh cho các quận xung quanh: Hà Đông, Sơn Nam Tây đạo, Đông Xuyên phát binh cứu viện Tây Xuyên, trong khi lệnh cho Cao Biền tiến đến Tây Xuyên để giải quyết "man sự".
Mùa xuân năm 875, Cao Biền được Đường Hy Tông bổ nhiệm là Tây Xuyên tiết độ sứ, cũng như Thành Đô doãn. Cao Biền nhận thấy sẽ phát sinh đại dịch nếu người dân đều tụ tập bên trong tường thành Thành Đô, vì thế ông ta đã hạ lệnh mở cổng thành cho người dân ra ngoài ngay cả trước khi ông ta đến thành này, người dân Thục bước đầu rất hài lòng về Cao Biền. Khi đến nơi vào mùa xuân năm 875, Cao Biền tiến hành một số cuộc tiến công nhỏ nhằm trừng phạt Nam Chiếu, sau đó cho xây dựng một số thành lũy trọng yếu trên biên giới với Nam Chiếu. Cao Biền tăng cường phòng thủ, Nam Chiếu không tiếp tục tiến hành các cuộc tiến công vào Tây Xuyên, song thỉnh cầu tổng tiến công Nam Chiếu (đời vua Mông Thế Long) của Cao Biền bị Đường Hy Tông từ chối.
Không lâu sau đó, Tăng Nguyên Dụ thay thế Tống Uy chỉ huy cấm binh, Tăng Nguyên Dụ nhanh chóng đánh bại và giết chết Vương Tiên Chi. Tuy nhiên, những người đi theo Vương Tiên Chi, bao gồm Thượng Nhượng, đã tập hợp binh sĩ và quy phục Hoàng Sào. Hoàng Sào tiếp tục tiến hành các chiến dịch, tiến về phía nam, chiếm giữ và trong một thời gian đã lấy Quảng châu (廣州, nay thuộc Quảng Châu, Quảng Đông) làm căn cứ. Trong khi đó, tù trưởng Sa Đà Lý Quốc Xương và nhi tử là Lý Khắc Dụng nổi dậy ở phía bắc, cố gắng chiếm lấy khu vực nay là tỉnh Sơn Tây song bị đánh bại và buộc phải chạy đến chỗ tộc Đạt Đát (達靼, thuộc Âm Sơn).. Vương Đạc khi đó đóng quân tại Giang Lăng, thấy tình thế bất lợi thì hoảng sợ và bỏ chạy, thuộc hạ của Vương là Lưu Hán Hoành cướp phá Giang Lăng và sau đó trở thành một thủ lĩnh nổi dậy độc lập. Tuy nhiên, quân Hoàng Sào đã bị chặn đứng trước các tướng khác của Đường là Lưu Cự Dung (劉巨容) và Cao Toàn Trinh (曹全晸) tại Giang Môn. Hoàng Sào buộc phải chạy trốn về phía đông, song đã tái tập hợp lực lượng ở khu vực Giang Tây ngày nay và chuẩn bị tiếp tục tiến về phía bắc..
Thuộc hạ của Cao Biền là Trương Lân (張璘) thoạt đầu giành được chiến thắng trước Hoàng Sào, song sau đó bị giết trong một cuộc giao tranh lớn vào mùa hè năm 880. Tinh thần của Cao Biền tiêu tan sau cái chết của Trương Lân, Hoàng Sào tiến về phía bắc, vượt Trường Giang và tiến vào vùng trung tâm của đế chế. Trước tình thế khẩn cấp, Đường Hy Tông đã ra chiếu chỉ lệnh cho quân lính từ các quân đến hội với Cao Biền ở Ân Thủy nhằm ngăn bước tiến của Hoàng Sào. Tuy nhiên, Hoàng Sào đánh bại Cao Biền, và sau khi xảy ra một cuộc binh biến ở Trung Vũ quân khiến Tiết độ sứ Tiết Năng thiệt mạng, tướng Đường phụ trách phòng thủ Ân Thủy là Tề Khắc Nhượng quyết định bỏ vị trí, khiến con đường đến đông đô Lạc Dương rộng mở với quân của Hoàng Sào.. Ngay khi nhận được tin Hoàng Sào đánh bại Trương Thừa Phạm cùng Tề Khắc Nhượng, và đang nhanh chóng tiến về Trường An, Đường Hy Tông và Điền Lệnh Tư đã từ bỏ kinh thành và chạy đến Thành Đô, đến nơi vào đầu năm 881. Hoàng Sào tiến vào Trường An và xưng là Hoàng đế Đại Tề. Hoàng Sào đồ sát các thành viên Hoàng tộc Đường và một lượng lớn các quan lại cao cấp, song cố gắng duy trì cơ cấu triều đình trong một thời gian với hy vọng các tướng lĩnh và quan lại của Đường sẽ quay sang trung thành với ông ta.
Sau khi Trường An thất thủ, một số Tiết độ sứ, bao gồm Trịnh Điền, Vương Trọng Vinh, Vương Xử Tồn, Thác Bạt Tư Cung, Trình Tông Sở và Đường Hoằng Phu, hội quân gần Trường An và sau đó tiến công kinh thành. Vào mùa hè năm 881, Hoàng Sào đã từ bỏ Trường An trong một thời gian ngắn, song sau đó đã nhận ra rằng quân Đường tiến vào Trường An nên đã phản công và khiến quân Đường chịu thiệt hại nặng nề, buộc họ phải từ bỏ Trường An. Trong vài năm sau đó, Hoàng Sào vẫn không bị đánh bật khỏi Trường An, còn bản thân Đường Hy Tông không thực sự cố gắng tổ chức quân đội triều đình để thực hiện việc này. Cao Biền cũng không tiến hành nỗ lực nào để đánh bật Hoàng Sào, Đường Hy Tông vì thế đã cho Tể tướng Vương Đạc làm Chư đạo Hành doanh Đô thống, chỉ huy chiến dịch chống Hoàng Sào.
Trong khi đó, Dương Phục Quang thuyết phục Lý Khắc Dụng giúp đánh Đại Tề để được xá tội, Lý Khắc Dụng tiến quân vào năm 882, và liên tục đánh bại quân Đại Tề. Hoàng Sào bị bao vây, ngoài khu vực kinh sư thì chỉ còn kiểm soát được hai châu, trong đó có Đồng châu do Chu Toàn Trung (tướng dưới quyền Hoàng Sào) quản lý. Chu Toàn Trung thấy tình thế đó thì bắt đầu tìm kiếm thời cơ thích hợp để rời bỏ Hoàng Sào, và sau khi giết chết giám quân Nghiêm Thực (嚴實) do Hoàng Sào phái đến, Chu Toàn Trung đầu hàng Hà Trung tiết độ sứ Vương Trọng Vinh, được Chư đạo hành doanh đô thống Vương Đạc của triều đình nhà Đường trao cho chức Đồng Hoa tiết độ sứ. Nhằm ban thưởng cho hành động ly khai hợp thời điểm này, Đường Hy Tông hạ chiếu cho Chu Toàn Trung giữ chức hữu kim ngô đại tướng quân, Hà Trung hành doanh chiêu thảo phó sứ, ban danh "Toàn Trung". Vào mùa thu năm 884, Lâm Ngôn đã giết Hoàng Sào, Đại Tề diệt vong. Tiết độ sứ Vương Trọng Vinh. Cuộc tranh chấp này bắt nguồn từ tình trạng ngân khố kiệt quệ của triều đình khi đó, triều đình không thể trả đủ lương cho các quân sĩ mà Điền Lệnh Tư đã tuyển mộ, trong đó bao gồm Thần Sách quân và đội tư binh của Điền. Điền Lệnh Tư đã cố gắng giải quyết một phần vấn đề bằng cách lệnh cho Vương Trọng Vinh giao lại quyền kiểm soát các ao muối tại Hộ Quốc cho triều đình. Vương Trọng Vinh từ chối và tuyên bố công khai chống lại Điền Lệnh Tư, Điền Lệnh Tư trả đũa bắt cách thỉnh Đường Hy Tông chuyển Vương Trọng Vinh đến Thiên Bình quân. Vương Trọng Vinh lại từ chối việc luân chuyển và liên kết với Lý Khắc Dụng nhằm chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với quân triều đình của Điền Lệnh Tư và các Tiết độ sứ là đồng minh của Điền. Khoảng tết năm 886, Vương Trọng Vinh và Lý Khắc Dụng đánh bại Điền cùng các đồng minh và tiến về Trường An, Điền Lệnh Tư đưa Đường Hy Tông chạy đến Hưng Nguyên..
- Hậu phi: "Không có ghi chép".
- Con cái: Đường Hy Tông có hai con trai, không thấy ghi chép gì về mẹ đẻ của các vị này.
Kiến vương Lý Chấn [建王李震], phong Vương năm Trung Hòa thứ 1 (881).
Ích vương Lý Bệ [益王李陞], phong Vương năm Quang Khải thứ 3 (887).
Đường Hưng Công chúa [唐興公主].
Vĩnh Bình Công chúa [永平公主].
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Hy Tông** (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy **Lý Huyên** (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Dương Phục Cung** (, ? - 894), tên tự **Tử Khác** (子恪), là một hoạn quan nhà Đường. Ông đóng vai trò chủ chốt trong triều đình của Đường Hy Tông và Đường Chiêu Tông.
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
**Tần Tông Quyền** () (? - 1 tháng 4 năm 889. Vào thời điểm đỉnh cao, Tần Tông Quyền kiểm soát một lãnh thổ bao gồm hầu hết tỉnh Hà Nam và một phần các
**Lê Hy Tông** (chữ Hán: 黎熙宗 15 tháng 3 năm 1663 – 3 tháng 4 năm 1716) tên húy là **Lê Duy Cáp** (黎維祫) hay **Lê Duy Hiệp** là vị vua thứ 10 của nhà
**Trương Tuấn** (張濬, ? - 20 tháng 1 năm 904), tên tự **Vũ Xuyên** (禹川), là một quan lại triều Đường, từng giữ đến chức _Đồng bình chương sự_ dưới triều đại của Đường Hy
**Dương Hành Mật** (, 852 – 24 tháng 12 năm 905), nguyên danh **Dương Hành Mẫn** (楊行愍, đổi tên năm 886), tên tự **Hóa Nguyên** (化源) là người giữ chức Hoài Nam tiết độ sứ
**Dương Phục Quang** (, 842-883), là một hoạn quan và tướng lĩnh triều Đường. Ông được đánh giá là có công lao lớn trong việc đánh bại cuộc nổi dậy của Hoàng Sào. __NOTOC__ ##
**Trần Dương** (chữ Hán: 陈旸, 1064 – 1128), tự Tấn Chi, người huyện Mân Thanh, địa cấp thị Phúc Châu, Phúc Kiến, quan viên, nhà lý luận âm nhạc cuối đời Bắc Tống. ## Sự
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Trận Tương Dương** () hay còn gọi là **trận Tương Phàn** () là một loạt các trận chiến then chốt giữa quân Nguyên và quân Nam Tống từ năm 1267 đến năm 1273. Sau trận
**Dương Diên Chiêu** (chữ Hán: 杨延昭; 958 - 1014), còn được gọi là **Dương Lục Lang** (楊六郎), là một nhà quân sự đầu thời Bắc Tống. Ông là con trai của danh tướng Dương Nghiệp
**Hi Tông** (chữ Hán: 僖宗) hoặc **Hy Tông** (熙宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. ## Danh sách * Đường Hy Tông *
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1836** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần thứ 13, được tổ chức từ thứ năm, ngày 2 tháng 11 đến thứ tư ngày
**Trận Hà Dương** () là một phần cuộc chiến trong loạn An Sử vào giữa thế kỷ 8 trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Đường và chính quyền Đại Yên do An Lộc Sơn
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Hậu Tấn Cao Tổ** (30 tháng 3, 892), tên thật là **Thạch Kính Đường** (石敬瑭), là hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Tấn, vương triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Chân Dung Tông Diễn** (chữ Hán: 真融宗演, 1638–1709 hoặc 1640–1711), còn có hiệu là **Đại Tuệ Quốc sư**, là Thiền sư Việt Nam đời Lê trung hưng. Ông thuộc đời pháp thứ 32 tông Tào
Trong hình học phẳng, **đường tròn** (hoặc **vòng tròn**) là tập hợp của tất cả những điểm trên một mặt phẳng, cách đều một điểm cho trước bằng một khoảng cách nào đó. Điểm cho
Cuộc **bầu cử tổng thống năm 2009 được tổ chức tại Afghanistan** được mô tả với việc bị hoãn vì vấn đề an ninh. Việc tổ chức bầu cử rất khó khăn và nguy hiểm
**Đại Huệ Tông Cảo** (zh: 大慧宗杲 _Ta-hui Tsung-kao,_ ja: _Daie Sōkō_, 1088–1163) là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Dương Kì, tông Lâm Tế. Sư là pháp tử nổi danh nhất của Thiền
**Diệu Tổng Vô Trước** (chữ Hán: 妙總 無著, _Miàozǒng wúzhuó_; ?-1163) là một nữ Thiền sư Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Tống. Sư là môn đệ ngộ đạo của Thiền sư Đại Huệ Tông
phải|Ảnh 3D phân tử [[Saccarose|đường mía]] nhỏ|Cây thốt nốt (loại cây có chứa đường và người ta có thể dùng chúng để làm ra đường). nhỏ|Đường (theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên
**_Đại Đường du hiệp truyện_** (; lit: Wandering Tang Dynasty Swordsman), là một tiểu thuyết _võ hiệp_ của Lương Vũ Sinh. Nó được viết giữa giai đoạn 1 tháng 1 năm 1963 và 14 tháng
**Mã Ân** () (853, Tằng tổ phụ của ông tên là Mã Quân (馬筠), tổ phụ của ông tên là Mã Chính (馬正), còn cha của ông tên là Mã Nguyên Phong (馬元豐). Gia đình
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Chiến tranh Hy Lạp-Ý** ( _Ellinoitalikós Pólemos_ hay **Πόλεμος του Σαράντα** _Pólemos tou Saránda_, "Cuộc chiến năm 40", , "Chiến tranh Hy Lạp") là một cuộc xung đột giữa Ý và Hy Lạp, kéo dài
**Mã Hy Phạm** () (899, và chưa hoàn toàn kiểm soát được Vũ An- sau trở thành trấn trung tâm của nước Sở, song đang dần củng cố quyền lực. Mã Hy Phạm và thứ
**Điền Lệnh Tư** (, ? - 893), tên tự **Trọng Tắc** (仲則), là một hoạn quan đầy quyền lực trong triều đại của Đường Hy Tông. Trong hầu hết thời gian Đường Hy Tông trị
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp