✨Đường Vũ Tông

Đường Vũ Tông

Đường Vũ Tông (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi qua đời, tổng 5 năm. Sử sách ghi chép không nhiều về những hành trạng của Lý Triền dưới thời Mục Tông và thời huynh trưởng của ông là Đường Kính Tông trị vì. Năm 827, anh trai thứ hai của Lý Triền là Đường Văn Tông Lý Ngang lên ngôi. Vào những năm Khai Thành (836 - 840), Lý Triền được ban tặng là Khai phủ nghi đồng tam ti, Kiểm giáo Lại bộ Thượng thư. Sử sách mô tả về Dĩnh vương Triền như sau:"Triền trầm tĩnh ít nói, vui buồn không biểu lộ ra sắc mặt".

Lý Triền cùng người anh là Yên vương Lý Dung (李溶) được Văn Tông đối xử tốt hơn các vị Thân vương khác.

Đầu năm 840, Văn Tông lâm trọng bệnh, mệnh Lưu Hoằng Dật, Tiết Quý Lăng triệu Tể tướng Dương Tư Phục, Lý Giác vào cung để phó thác Thái tử. Các hoạn quan Cừu Sĩ Lương và Ngưu Hoằng Chí vốn kiểm soát Văn Tông từ lâu, không đồng ý công nhận Thành Mĩ nên quyết định giả mạo chiếu chỉ, lập Lý Triền làm Hoàng thái đệ (皇太弟) mặc dù có sự phản đối của Tể tướng Lý Giác. Sau đó, bọn Sĩ Lương đem binh vào Thập lục trạch (nơi ở của Lý Triền) và đón ông vào điện Thiếu Dương, bách quan yết kiến ở điện Tư Hiền. Ngày Kỉ Mão (8 tháng 2), Sĩ Lương giả chiếu chỉ nhân danh Văn Tông, nói Thái tử nhỏ tuổi không đảm đương được trọng trách, nên cho về làm Trần vương. Dĩnh vương Triền cùng Văn Tông trước cùng học một thầy, tính hình khoan dung nhân hậu nên có thể lập làm Hoàng thái đệ, quyết định việc trong triều. Ngày Tân Tị (tức 10 tháng 2), Văn Tông băng hà ở điện Thái Hòa, có chiếu lấy Dương Tư Phục Nhiếp trùng tể, tuyên di chiếu cho Thái đệ tức vị trước cữu tiền. Ngày 11 tháng 2, theo đề nghị của Cừu Sĩ Lương, Hoàng thái đệ hạ lệnh giết chết Dương Hiền phi, Yên vương Lý Dung cùng Trần vương Thành Mĩ. Cừu Sĩ Lương vốn oán Văn Tông từng muốn diệt mình nên đã cho trục xuất hết nhạc công và nội thị gần gũi với Văn Tông.

Ngày Tân Mão (20 tháng 2), Thái đệ tức vị Hoàng đế, sử xưng là Đường Vũ Tông. Giáp Ngọ (23 tháng 2), Vũ Tông truy phong mẹ của mình (đã mất) là Vi thị làm Hoàng thái hậu, thụy Tuyên Ý (宣懿), rồi sau đó hạ lệnh xá thiên hạ và xin nội thuộc triều đình.

Năm 841, ở Hồi Cốt Khả hãn Ô Giới (841 - 846) lên ngôi. Quân Hồi Cốt đã rất nhiều lấn tấn công vào biên giới với nhà Đường để lùng bắt bọn Ốt Một Tư, quấy nhiễu nhân dân. Năm 841, Vũ Tông cùng triều thần bàn định về việc Cốt Một Tư quy phục. Theo lời khuyên của Lý Đức Dụ, Vũ Tông quyết định thu nhận tàn quân này, ban lương thực cho tàn quân Ốt Một Tư, phong tước vương, ban họ Lý cho ông ta. Trước đó, tộc Hiệt Kiết tìm thấy công chúa Thái Hòa được triều Đường gả sang Hồi Cốt khi trước, nên sai đưa về Trung Nguyên, giữa đường công chúa bị quân Hồi Cốt bắt được, đưa làm con tin. Tiếp theo Hồi Cốt liên tục cho quân xâm phạm biên cương, triều đình phải bố trí nhiều lực lượng để phòng bị. Hồi Cốt khả hãn yêu cầu nhà Đường giao Ốt Một Tư cho mình nhưng Vũ Tông không chấp nhận.

Từ năm 841 đến năm 844, vua Bột Hải Trang Tông của vương quốc Bột Hải phái sứ giả sang nhà Đường (đời vua Đường Vũ Tông) triều cống 4 lần vào các năm 841, 842, 843 và 844.

Liên tiếp từ năm 842 đến 843, quân Đường và quân Hồi Cốt liên tiếp nổ ra những trận chiến, xen vào đó là các cuộc đàm phán bất thành. Đến năm 843, tướng Đường là Lưu Miện cho quân tấn công bất ngờ vào doanh trại của Khả hãn Ô Giới, Khả hãn sợ quá phải bỏ trốn cùng khoảng 100 kị binh. Quân Đường giải thoát được công chúa Thái Hòa và giết hơn 10.000 quân, hơn 20.000 người Hồi Cốt phải đầu hàng. Quân Đường giành thắng lợi lớn, Hồi Cốt buộc phải quy phục. Về sau Hồi Cốt ngày càng suy yếu, mặc dù vẫn thỉnh thoảng tấn công vào biên cương nhà Đường nhưng không thể gây hại lớn như trước.

Ở An Nam đô hộ phủ của nhà Đường, năm 841, Vũ Tông xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước. Năm 843 An Nam Kinh lược sứ Vũ Hồn sai tướng sĩ sửa thành, tướng sĩ làm loạn, đốt thành lũy, cướp kho phủ. Vũ Hồn chạy sang Quảng Châu, giám quân Đoàn Sĩ Tắc dụ yên những người nổi loạn.

Năm 846, vua Mông Khuyến Phong Hữu của Nam Chiếu phái quân vào đánh phá An Nam đô hộ phủ. Vua Đường Vũ Tông sai Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được.

Đối nội

Sau khi lên ngôi, biết Lý Giác và Dương Tư Phục vốn không ủng hộ mình, nên Vũ Tông cho cách chức tể tướng của họ, rồi cho triệu cựu tể tướng là Tiết độ sứ Hoài Nam Lý Đức Dụ về triều và lại phong làm Môn hạ thị lang, Đồng bình chương sự, giữ tướng vị, đồng thời Hình bộ thượng thư Thôi Củng cũng được phong chức Đồng bình chương sự, kiêm Diêm thiết chuyển vận sứ. Lý Đức Dụ vào cung tạ ơn, nhân đó trình bày lên Vũ Tông những ý kiến của mình về chính nhân và tà nhân, được Vũ Tông tiếp nhận. Đức Dụ từ đó nắm quyền lớn trong triều và rất được tin tưởng.

Đầu năm 841 xá thiên hạ, cải nguyên là Hội Xương năm thứ nhất là Lưu Tòng Gián vốn có hiềm khích với bọn Cừu Sĩ Lương, nên đã tìm cách củng cố thế lực để tránh bị hoạn quan hãm hại về sau. Cuối xuân năm 843, Tòng Gián mất, cháu là Lưu Chẩn giấu việc không phát tang, muốn được làm lưu hậu, Ngụy Bác và Lư Long - vốn chỉ còn lệ thuộc triều đình trên danh nghĩa - sẽ hỗ trợ Lưu Chẩn, nên quyết định hứa cho các Tiết độ sứ này được quyền truyền chức cho con (mặc dù đây đã là thông lệ từ lâu) và hứa sau khi đánh dẹp xong sẽ cắt các đất ba châu ở phía đông núi Thái Hàng cho hai trấn Ngụy Bác và Thành Đức nếu họ giúp mình. Hai tiết độ sứ Hà Hoằng Kính (Ngụy Bác) và Vương Nguyên Quỳ (Thành Đức) đều đồng ý hợp tác với triều đình.

Vũ Tông sau đó hạ chiếu triệu Lưu Chẩn đến Lạc Dương. Chẩn không theo nên triều đình quyết định thảo phạt Chiêu Nghĩa. Các tướng triều đình là Vương Tể, Tiết độ sứ Hà Dương Vương Mậu Nguyên, Tiết độ sứ Hà Đông Lưu Miện, Tiết độ sứ Hà Trung Trần Di Hành, Tiết độ sứ Vũ Ninh Lý Ngạn Tá cùng Vương Nguyên Quỳ và Hà Hoằng Kính, năm trấn hợp quân công thảo. Quân các trấn Hà Bắc chia nhau đánh ở đông, còn quân triều đình tấn công hai quận phía tây, trong đó có trụ sở của trấn này là Lư châu. Nhưng quân triều đình không thể nhanh chóng đánh bại quân của Lưu Chẩn thì trong nội bộ lại sinh ra biến loạn khi tướng ở Hà Đông là Dương Biện cũng nổi dậy chống lại triều đình ở Thái Nguyên. Nhưng may là triều đình nhanh chóng đánh dẹp được và bắt sống được Dương Biện. Tiếp đó quân Đường lại tấn công Chiêu Nghĩa. Trong năm 844, quân Chiêu Nghĩa liên tiếp bại trận,ba châu phía đông Hình,Từ,Minh đầu hàng các trấn Hà Bắc và cuối cùng mùa thu năm đó, Lưu Chẩn bị tướng dưới quyền Quách Nghị giết chết. Quách Nghị đem thủ cấp của Lưu Chẩn nộp cho Vương Tể. *Lý do cá nhân: Đường Vũ Tông vốn là người tôn sùng Đạo giáo và Nho giáo, các đạo mà ông xem là chính thống của Trung Quốc. Đạo giáo mê mẩn người ta bằng phép thuật trường sinh bất tử, trong khi đó theo quan niệm của Phật giáo thì khi người ta thành chính quả thì cũng là lúc rời bỏ trần thế, do đó Vũ Tông chú tâm rất nhiều đến Đạo giáo. Ông cho triệu đạo sĩ Triệu Quy Chân vào cung để luyện thuốc trường sinh cho mình, và Quy Chân cũng nhiều lần khuyên Vũ Tông phế bỏ đạo Phật. Đường Vũ Tông đã ra lệnh đóng nhiều cửa chùa, chỉ định rằng mỗi nơi chỉ được xây 1 ngôi chùa duy nhất. Đây miễn cưỡng cũng có thể xem là một cuộc cải cách đạo Phật.

Tuy nhiên về sau Vũ Tông lại trở nên cuồng tín và căm ghét đạo Phật. Năm 844, cuộc đàn áp tôn giáo chuyển sang giai đoạn ác liệt nhất. Theo báo cáo của Từ bộ thì vào năm 844 ở Trung Quốc còn 4600 ngôi chùa, 40.000 ẩn thất; 260.500 tăng ni. Vũ Tông hạ lệnh phá hủy rất nhiều chùa chiền trong nước, các tăng ni không có thực tu bị bắt phải hoàn tục, tài sản trong nhà chùa bị như tượng Phật, lư hương, chung bàn bị tịch thu và phá ra để lấy đồng mà quy đổi ra tiền, đồ dùng hành đạo bị phá hủy. Lại ra lệnh cho Thượng Đô, Đông Đô mỗi nơi chỉ giữ lại 2 ngôi chùa, mỗi chùa chỉ giữ 20 người. Các phủ Tiết độ và quan sát sứ mỗi nơi chỉ giữ lại một chùa, phân những ngôi chùa còn lại ra các đẳng: nhất đẳng 20 người rồi lại giảm còn 10 người, nhị đẳng 10 người rồi giảm xuống 7 người, tam đẳng 5 người sau đó xóa bỏ. Các chùa do Đại sứ Thanh Hải trấn thuộc Tân La (đời vua Tân La Văn Thánh Vương) là Trương Bảo Cao và người Tân La dựng lên ở Dương Châu và Sơn Đông nhà Đường cũng bị ảnh hưởng. Chỉ trong năm 845, đã có 260.500 tăng ni bị bắt phải hoàn tục và nộp thuế trở lại như dân thường, 4600 ngôi chùa bị phá hủy; chiêu đề, lan nhược bị hủy lên đến hơn 40.000 địa điểm. Nhà sư Ennin của Nhật Bản (đời Thiên hoàng Ninmyō) đã sang nhà Đường từ năm 838 (đời vua Đường Văn Tông) thì nay bị trục xuất khỏi nhà Đường. Các tôn giáo ngoại nhập hầu như là bị xóa sổ tất cả.

Sau khi Đường Vũ Tông mất, Đường Tuyên Tông lên ngôi, đã hủy bỏ các sắc lệnh này, không cấm đoán như vậy nữa, nhưng chỉ có đạo Phật được phục hồi, còn các tôn giáo khác không còn phát triển được nữa ở Trung Hoa.

Qua đời

Đường Vũ Tông do lạm dụng đơn dược để mong được trường sinh, nên tính tình trở nên khắc nghiệt và sức khỏe ngày càng suy nhược. Cuối năm 845 ông lâm bệnh nặng, nên nghĩ cách đổi tên để thay đổi vận số. Theo thuyết Ngũ hành, cấu tạo của chữ Triền (瀍) tương khắc với tên triều đại là Đường (唐), nên Vũ Tông đổi tên là Viêm (炎) vào tháng 3 ÂL. Tuy nhiên, bệnh tình của ông vẫn ngày một nặng thêm. Từ ngày Ất Mão tháng 1 ÂL, Vũ Tông đã không thể lâm triều, do đó trong ngoài bất an.

Quang vương Lý Di là Hoàng tử thứ 13 trong số 20 người con trai của Đường Hiến Tông Lý Thuần, tức Hoàng thúc phụ của Đường Vũ Tông nhưng thường bị đánh giá là người thiếu thông minh. Vũ Tông thấy tuổi của Hoàng thúc Lý Di không hơn mình bao nhiêu nên lại càng tỏ ra không biết lớn nhỏ, bất kính với Hoàng thúc. Khi Vũ Tông lâm bệnh thì đã không thể nói được nữa. Bọn hoạn quan thấy vậy, bèn tìm cách lập người ngu lên ngôi để dễ thao túng. Ngày 19 tháng 4 (Tân Dậu tháng 2 ÂL), hoạn quan giả chiếu chỉ của Vũ Tông, viết:"Hoàng tử nhỏ tuổi, chưa đủ hiền đức để trị quốc. Quang vương Lý Di có thể lập làm Hoàng thái thúc, đổi tên là Thầm, đảm đương quân quốc chánh sự".

Hậu phi

Đức phi Lưu thị (德妃刘氏).

Thục phi Vương thị (淑妃王氏).

Hiền phi Lưu thị (贤妃刘氏).

Hiền phi Vương thị (贤妃王氏, ? - 846), người Hàm Đan, vào cung làm Tài nhân (才人), độc sủng mọi tình yêu của Vũ Tông. Sau khi Vũ Tông băng, Vương tài nhân tự sát, truy phong Hiền phi.

Chiêu nghi Ngô thị (昭仪吴氏).

Chiêu nghi Thẩm thị (昭仪沈氏).

Tu nghi Đổng thị (修仪董氏).

Tiệp dư Trương thị (婕妤张氏).

Tiệp dư Triệu thị (婕妤赵氏).

Tài nhân Mạnh thị (才人孟氏).

Hoàng tử

Kỉ vương Lý Tuấn [杞王李峻].

Ích vương Lý Hiện [益王李岘].

Duyện vương Lý Kì [兗王李岐].

Đức vương Lý Dịch [德王李峄].

Xương vương Lý Tha [昌王李嵯].

Hoàng nữ

Xương Nhạc Công chúa (昌樂公主).

Thọ Xuân Công chúa (壽春公主).

Vĩnh Ninh Công chúa (永寧公主), mất năm Hàm Thông.

Diên Khánh Công chúa (延慶公主).

Tĩnh Lạc Công chúa (靖樂公主), mất năm Hàm Thông.

Lạc Ôn Công chúa (樂溫公主).

Trường Ninh Công chúa (長寧公主), mất năm Đại Trung.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Vương Tài nhân** (chữ Hán: 王才人, ? - 846), còn được gọi là **Vũ Tông Vương Hiền phi** (武宗王賢妃), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Vũ Tông Lý Viêm trong lịch
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Đường Văn Tông Dương Hiền phi** (chữ Hán: 唐文宗楊賢妃, ? - 12 tháng 12 năm 840), là phi tần của Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc. Dương Hiền phi có ảnh hưởng lớn
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Đường Tuyên Tông** (chữ Hán: 唐宣宗, 27 tháng 7, năm 810 - 7 tháng 9, năm 859), tên thật **Lý Thầm** (李忱) là vị Hoàng đế thứ 17 hay 19 của triều đại nhà Đường
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
nhỏ|Chân dung ông Vũ Tông Phan **Vũ Tông Phan** (武宗璠, 1800 - 1851), tự **Hoán Phủ**, hiệu **Lỗ Am**, **Đường Xuyên**, là danh sĩ, nhà giáo đời nhà Nguyễn. Vũ Tông Phan là học trò
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Vũ Tông** (chữ Hán: 武宗) hoặc **Võ Tông**, là miếu hiệu của một số vị quân chủ: * Đường Vũ Tông Lý Triền, tại vị 840-846. * Hạ Vũ Tông Lý Kế Thiên, truy tôn,
**Đường Hy Tông** (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy **Lý Huyên** (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Duệ Chân Thẩm Hoàng hậu** (chữ Hán: 睿真沈皇后; _không rõ năm sinh năm mất_), là thiếp của Đường Đại Tông khi còn là Quảng Bình vương, đồng thời là sinh mẫu của Đường Đức Tông
**Vi Hiền phi** (chữ Hán:韦贤妃, ? - 809), là phi tần của Đường Đức Tông Lý Quát. Bà nổi tiếng vì việc thờ cúng chồng mình cho đến tận khi qua đời. ## Đường triều
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Trương Trọng Vũ** (張仲武, ? - 849), thụy hiệu **Lan Lăng Trang vương** (蘭陵莊王) (theo _Cựu Đường thư_) hay **Lan Lăng Trang công** (蘭陵莊公) (theo _Tân Đường thư_), là tướng dưới thời nhà Đường trong
**Dương Thu** (chữ Hán: 杨收, 816 – 870), tự **Tàng Chi**, là tể tướng vãn kỳ đời Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Nhà họ Dương tự nhận là hậu duệ của
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, 547 – 631), biểu tự **Văn Kỷ** (文纪), là một quan viên trải 3 đời Bắc Chu, nhà Tùy và nhà Đường. Ông là bậc đại Nho, từng phụng sự
**Dương Bảo Tông** (chữ Hán: 杨保宗, ? – 443), tên khác là **Khương Nô** (羌奴), người dân tộc Đê, thủ lĩnh nước Cừu Trì vào đời Nam Bắc triều, kế vị vào năm 429 nhưng
**Công vụ Tông đồ** (theo cách gọi của Công giáo) hoặc **Công vụ các Sứ đồ** (theo cách gọi của Tin lành) là một trong các sách trong Thánh Kinh của Kitô giáo. Những câu
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
**Lưu Vũ Tích** (chữ Hán: 劉禹錫, 772-842) tự: **Mộng Đắc** (夢得); là viên quan và là nhà thơ Trung Quốc thời Trung Đường. ## Tiểu sử **Lưu Vũ Tích** là người Lạc Dương (nay là
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Vũ Hồn** (**武浑**, chữ bên tả là bộ thủy, chữ bên hữu là bộ quân ghép lại là chữ Hồn 浑 với nghĩa là hồn hậu; nết tốt đẹp; 804 - 853) là quan nhà
**Vương Đạc** (, ? - 884), tên tự **Chiêu Phạm** (昭範), là một quan lại triều Đường. Ông từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Ý Tông và Đường Hy Tông. Sau
hay là ba cuộc đàn áp chống lại Phật giáo trong lịch sử Trung quốc. Nó đã được đặt tên như vậy bởi vì các thụy hiệu hay miếu hiệu của tất cả ba hoàng
**Dương Phục Quang** (, 842-883), là một hoạn quan và tướng lĩnh triều Đường. Ông được đánh giá là có công lao lớn trong việc đánh bại cuộc nổi dậy của Hoàng Sào. __NOTOC__ ##
️ Da em trắng như màu mây ban nắng... hú húNghe là thấy ham hố luôn rồi á Đi tiệc tùng, đám cưới hay đi biển,... thì chỉ cần bôi em này lên cái là