✨Vương hoàng hậu (Đường Huyền Tông)

Vương hoàng hậu (Đường Huyền Tông)

Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi Huyền Tông Phế hậu (玄宗廢后) hay Huyền Tông Vương Thứ nhân (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ.

Thân thế

Hoàng hậu Vương thị người huyện Hạ Bì, Đồng Châu (同州下邽县; nay thuộc Đại Lệ, Thiểm Tây). Thân phụ của bà là Vương Nhân Hiệu (王仁皎), con cháu của thứ sử Kí châu Vương Thần Niệm đời nhà Lương, xuất thân từ gia tộc Thái Nguyên Vương thị trứ danh. Bà thành hôn với Đường Huyền Tông khi ông còn làm Lâm Tri vương vào năm Trường Thọ thứ 2 (693), do Lý Long Cơ là một Quận vương và Vương thị do đó được sách phong làm Quận vương phi.

Năm Cảnh Long thứ 4 (710), Đường Trung Tông Lý Hiển băng hà, Vi Hoàng hậu tự xưng là Hoàng thái hậu, toan tiến hành chấp chính và có ý soán ngôi xưng Hoàng đế như mẹ chồng là Võ Tắc Thiên đã từng làm. Đấy là Loạn Vi hậu. Sử sách ghi nhận rằng, Vương phi tham gia bàn tính và ủng hộ cho chồng trong kế hoạch binh biến đó. Sau cuộc đảo chính, phụ thân của Lý Long Cơ là Tương vương Lý Đán được lập làm Hoàng đế lần thứ hai, tức Đường Duệ Tông. Lý Long Cơ được tấn lập làm Thái tử và Vương phi được phong thành Thái tử phi.

Thái tử phi Vương thị không có con trai nên Lý Long Cơ đem người con của Triệu Lệ phi là Lý Anh cho bà nuôi làm con.

Hoàng hậu nhà Đường

Năm Diên Hòa nguyên niên (712), Đường Duệ Tông xuống chiếu nhường ngôi, Thái tử thụ thiện đăng cơ, tức Đường Huyền Tông, cải nguyên Tiên Thiên. Ngày 20 tháng 8 cùng năm, Huyền Tông ra chỉ sách lập Thái tử phi Vương thị làm Hoàng hậu. Do là ngoại thích, cha của Vương Hoàng hậu là Vương Nhân Hiệu được phong làm Đắc tiến (特进), kèm tước hàm "Khai phủ nghi đồng tam tư" (開府儀同三司) cùng Thượng trụ quốc (上柱國), tước vị Kỳ Quốc công (祁國公). Trong đời Khai Nguyên, chỉ có Nhân Hiệu cùng Diêu Sùng, Tống Cảnh (宋璟) và Vương Thủ Trùng (王毛仲) có được cái tước vinh hàm Khai phủ nghi đồng tam tư.

Là ngoại thích, Vương Nhân Hiệu bị xa lánh không cho nhậm chức cao, nhưng lại sinh hoạt xa xỉ có tiếng. Năm đầu Khai Nguyên, anh rể của Vương Hoàng hậu là Trưởng Tôn Hân (长孙昕) có tranh chấp với Ngự sử đại phu Lý Kiệt (李杰), nên cậy vào thân phận hoàng thân quốc thích đã cùng với đồng minh là Dương Tiên Ngọc (杨仙玉) đánh đập Lý Kiệt đến trọng thương. Lý Kiệt dâng biểu tố cáo lên Huyền Tông. Và nhà vua, trong cơn tức giận, liền cho xử tử Trưởng Tôn Hân cùng Dương Tiên Ngọc. Căn cứ Thái Bình quảng ký (太平廣記) ghi lại, Vương Nhân Hiệu đã cho đám người 200 kỵ binh bắt cóc Trưởng Tôn Hân cùng Dương Tiên Ngọc trước khi hành hình.

Năm Khai Nguyên thứ 7 (719), cha của Vương Hoàng hậu là Vương Nhân Hiệu qua đời. Khi đó anh em trai Vương Hoàng hậu là Vương Thủ Nhất (王守一) - người đã thế tập tước Kỳ Quốc công và đã kết hôn với Tiết Quốc công chúa, tức chị của Huyền Tông - đề nghị xây dựng mộ phần Vương Nhân Hiệu theo quy mô ngôi mộ của Đậu Hiếu Kham, ngoại tổ phụ của Huyền Tông. Ban đầu Huyền Tông đồng ý, nhưng sau đó các tể tướng Tống Cảnh và Tô Đĩnh phản đối vì cớ mộ của Đậu Hiếu Kham quá tốn kém và không nên làm thêm một ngôi mộ như thế nữa. Huyền Tông đồng ý với các Tể tướng và hạ lệnh chôn cất Vương Nhân Hiệu theo lễ quan nhất phẩm.

Càng về sau Vương Hoàng hậu ngày càng già đi, nhan sắc ngày càng suy kém, không còn được sự sủng ái của Đường Huyền Tông nữa. Bấy giờ đắc sủng là Võ Huệ phi, con gái của Võ Du Chỉ, một người cháu trong họ của Võ Tắc Thiên. Võ Huệ phi hạ sinh được 7 người con trong khi Vương Hoàng hậu không con. Võ Huệ phi có ý ganh ghét, mưu đồ chiếm ngôi Hoàng hậu, khiến Vương Hoàng hậu rất bất bình và tức giận, nhiều lần tố cáo trước mặt Đường Huyền Tông. Tuy nhiên Đường Huyền Tông lại đồng ý với Võ Huệ phi, nghe những lời của bà thì càng chán ghét hơn và cũng muốn phế Vương Hoàng hậu.

Năm Khai Nguyên thứ 10 (722), Đường Huyền Tông cùng đại thần Khương Kiểu (姜晈) bàn kế hoạch phế hậu với lý do Hoàng hậu vô tử, tuy nhiên Khương Kiểu lại tiết lộ việc này tới tai Vương Hoàng hậu. Trương Gia Trinh (張嘉貞), người nắm tướng vị khi đó, là người thân thiết với Vương Thủ Nhất cùng với Đằng vương Lý Kiểu (李峤) - em rể của Vương Hoàng hậu - đều dâng thư hỏi lý do lên Đường Huyền Tông. Thế là Hoàng đế sinh bực bội với Khương Kiểu, bèn cho đánh Khương Kiểu 60 trượng, rồi đày ông ta cùng người anh em là Khương Hối ra Khâm Châu.

Bị phế truất

Sau vụ Khương Kiểu, Vương Hoàng hậu tâm trạng lo lắng sợ bị phế. Sử sách ghi rằng Vương Hoàng hậu rất có uy tín với bọn thái giám và cung nữ nên không ai nói gì về những việc làm tiêu cực của bà. Vì thế Đường Huyền Tông cũng không có lý do gì thích hợp để phế truất bà và có lúc đã do dự. Có một dịp, Vương Hoàng hậu nhắc nhở Đường Huyền Tông rằng thuở còn hàn vi, có lần Vương Nhân Hiệu đã phải nhào bột làm mì để mừng sinh nhật Đường Huyền Tông, đến nỗi tay ông ta bị bầm tím cả lên. Đường Huyền Tông có tỏ ra xúc động nhưng không lâu sau thì đâu lại vào đấy.

Tuy nhiên phía Vương Thủ Nhất lại cùng với đạo sĩ làm lễ cúng Nam Tào và Bắc Đẩu, rồi đưa cho Vương Hoàng hậu đeo một miếng ngọc bội làm bằng gỗ khắc hình trời đất và tên húy của Đường Huyền Tông, với ý cầu cho Vương Hoàng hậu có con và sẽ được như Võ Tắc Thiên lúc xưa. Cuối cùng sự việc bị lộ, nguyên nhân đều cho rằng Võ Huệ phi tố giác, Huyền Tông cho tra ra và quả nhiên có đồ cúng tế. Năm Khai Nguyên thứ 12 (724), ngày 21 tháng 2 (âm lịch), Đường Huyền Tông xuống chiếu phế Vương Hoàng hậu làm [Thứ nhân; 庶人]. Cựu tể tướng Trương Gia Trinh cũng bị nghi ngờ có thông đồng với Vương Hoàng hậu nên cũng bị biếm làm Thứ sử Thái Châu. Đây được gọi là [Phù yếm sự kiện; 符厭事件].

Trong năm ấy, vào tháng 10, Vương Thứ nhân do đau buồn nên qua đời, trong cung nhiều người khóc thương. Đường Huyền Tông cũng cảm thấy hối hận, bèn an táng bà theo nghi lễ dành cho nhất phẩm vào Vô Tương tự (无相寺). Năm Bảo Ứng nguyên niên (762), dưới thời Đường Đại Tông, cháu nội của Đường Huyền Tông, Vương thị được truy phong lại làm Hoàng hậu nhưng không có thụy hiệu.

Trong văn hóa đại chúng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Nguyên Hiến Dương hoàng hậu** (chữ Hán: 元獻楊皇后; 699 - 729), cũng thường gọi **Dương Quý tần** (楊貴嬪), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ và là sinh mẫu của Đường
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Tích Thiện Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 積善何皇后, ? - 22 tháng 1, năm 906.), cũng gọi **Tích Thiện Hà Thái hậu** (積善何太后), là Hoàng hậu dưới thời Đường Chiêu Tông Lý Diệp, mẫu thân
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Chương Mục Hoàng hậu** (chữ Hán: 章穆皇后; 975 - 1007), kế thất của Tống Chân Tông Triệu Hằng, nhưng lại là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của ông. ## Tiểu sử Chương Mục hoàng
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞純皇后; ? - 20 tháng 3, 1518), còn gọi **Từ Thánh Thái hoàng thái hậu** (慈聖太皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm.
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Túc Minh Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 肅明順聖皇后, ? - 693), là Hoàng hậu của Đường Duệ Tông Lý Đán, một vị Hoàng đế nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Chương Kính Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 章敬吳皇后; ? - 730), thông xưng **Ngô phu nhân** (吳夫人), là cơ thiếp của Đường Túc Tông Lý Hanh khi ông còn là Thái tử. Bà được biết
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy