Tống Nhược Chiêu (chữ Hán: 宋若昭; 761 - 828) là một nữ quan nổi tiếng của triều đại nhà Đường.
Theo Đường thư ghi lại, Tống thị vào cung nhà Đường trải qua các chức vụ Nữ quan, cao cấp nhất từng làm là Thượng cung. Trải qua các đời Đường Đức Tông, Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông và Đường Kính Tông, bà có cống hiến cực cao, địa vị nổi bật, được các vị Hoàng đế tôn trọng, còn được gọi là "Tiên sinh", có thể nói địa vị trọng đại.
Tiểu sử
Tống Nhược Chiêu sinh vào năm Thượng Nguyên thứ 2 (761) triều Đường Túc Tông, quê ở huyện Thanh Dương, thuộc Bối Châu (贝州; này là phía Đông của huyện Thanh Hà, thành phố Hình Đài, Hà Bắc), cha bà là Tống Đình Phân (宋庭芬), nổi tiếng là một nhà Nho sĩ trứ danh. Trong nhà bà còn 1 em trai Tống Tắc (宋稷) và 4 người chị em khác: Tống Nhược Sân, Tống Nhược Luân, Tống Nhược Hiến và Tống Nhược Tân, đều được gia phụ dạy dỗ mà rất có tài hoa về thi thư. Các chị em bà đều chuộng thi phú và học thức, nguyện dùng tài hoa văn chương bồi dưỡng cha mẹ mà không gả cho ai khác. Tống Nhược Chiêu từng cùng chị gái Tống Nhược Sân là tài hoa hơn cả, không hay dùng trang sức quý báu, mà trọng kiến thức, vật dụng đều đạm bạc. Hai người cùng nhau viết cuốn Nữ luận ngữ gồm 10 thiên, đều dùng được cho đời.
Năm Trinh Nguyên thứ 4 (788), Tiết độ sứ của Chiêu Nghĩa là Lý Bảo Chân tiến cử năm chị em nhà Tống Nhược Chiêu vào triều. Thế là Nhược Chiêu cùng các chị em của mình được Đường Đức Tông khảo qua thi phú, cũng khảo sát kinh sử đại nghĩa, nhận ra thực học văn tài, nên được Đức Tông tán thưởng. Năm chị em họ Tống văn hay chữ tốt, thường cùng bồi giá Đức Tông họa thi thơ, danh tiếng nức trời. Đức Tông kính trọng, không đối xử như Thứ phi hay Cung nữ, mà gọi họ là Học sĩ (学士). Tống Đình Phân nhờ các con gái mà được làm quan, Nhiêu Châu Tư mã ở Tập Nghệ quán, bổng lộc đều đặc cách hơn người khác.
Năm cuối Nguyên Hòa (820), Tống Nhược Sân qua đời, Đường Mục Tông sai Tống Nhược Chiêu tiếp quản kí chú, bộ tịch trong cung, phong làm Ngoại thượng thư, sau đó lại làm lễ bái Tống thị làm Thượng cung (尚宫), theo quan chế là hàm Chính ngũ phẩm. Trong 5 chị em họ Tống, Tống Nhược Chiêu là người thông minh và khéo ứng xử nhất, qua liên tiếp các đời Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông; bà đều được cả ba vị Hoàng đế tôn trọng, xưng gọi ["Tiên sinh"; 先生]. Hậu cung tần phi và hoàng tử công chúa đều dùng lễ bái kiến bà. Để nâng cao địa vị cho bà, Mục Tông tiến phong bà làm Nhất phẩm Lương Quốc phu nhân (梁國夫人).
Năm Đại Hòa thứ 2 (828), ngày 11 tháng 7 (tức ngày 10 tháng 9 dương lịch), Tống Nhược Chiêu qua đời tại Đại Minh cung. Linh cữu tạm quàng tại Vĩnh Mục đạo quán. Năm ấy, ngày 8 tháng 11 (âm lịch), bà được an táng tại huyện Vạn Niên. Thân phận cao quý, triều đình đặc biệt làm lễ tang long trọng, cử em trai Tống Tắc làm chủ tang.
Tác phẩm
Cuốn sách Nữ luận ngữ (女论语), còn gọi là Tống Nhược Chiêu Nữ luận ngữ, là tác phẩm mà hai chị em Tống Nhược Sân và Tống Nhược Chiêu cùng tạo nên, được liệt vào trong Nữ tứ thư, có 10 thiên sách. Ngoài ra bà còn có một tập truyện gọi là Ngưu Ứng Trinh truyện (牛应贞传), đó là truyện về nữ thần đồng Ngưu Ứng Trinh, con gái của Ngưu Túc, tác giả cuốn Kỉ văn. Bên cạnh đó, Toàn Đường thi còn ghi lại bài Phụng Hòa ngự chế Lân Đức điện yến bách liêu ứng thế (奉和御制麟德殿宴百撩应制) của bà:
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Nhược Chiêu** (chữ Hán: 宋若昭; 761 - 828) là một nữ quan nổi tiếng của triều đại nhà Đường. Theo Đường thư ghi lại, Tống thị vào cung nhà Đường trải qua các chức
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208)** hay **Khai Hi bắc phạt** là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Đường Chiêu Tông** (chữ Hán: 唐昭宗, 31 tháng 3 năm 867 – 22 tháng 9 năm 904), nguyên danh **Lý Kiệt** (李傑), sau cải thành **Lý Mẫn** (李敏), rồi **Lý Diệp** (李曄), là hoàng đế
**Đường Vũ Tông** (chữ Hán: 唐武宗; 2 tháng 7 năm 814 - 22 tháng 4 năm 846 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 841 đến khi
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
nhỏ|Các nước "cộng hòa tổng thống" với mức độ "tổng thống chế toàn phần" được biểu thị bằng màu **Xanh biển**. Các quốc gia có một mức độ "tổng thống chế bán phần" được biểu
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Liên Chiểu** là một quận nội thành thuộc thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. ## Địa lý Quận Liên Chiểu nằm ở phía tây bắc thành phố Đà Nẵng, có vị trí địa lý: *Phía
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
**Triều Tiên Thành Tông** (chữ Hán: 朝鮮成宗; Hangul: 조선 성종, 20 tháng 8, 1457 - 20 tháng 1, 1495), là vị quốc vương thứ 9 của nhà Triều Tiên. Ông ở ngôi từ năm 1469
thumb|[[A-di-đà và hai Bồ Tát Quán Thế Âm (phải) và Đại Thế Chí (trái)|262x262px]] **Tịnh độ tông** hay **Tịnh thổ tông** (zh. _jìngtǔ-zōng_ 淨土宗, ja. _jōdo-shū_), có khi được gọi là **Liên tông** (zh. 蓮宗),
**Hoàn Nhan Tông Hàn** (chữ Hán: 完颜宗翰, 1080 – 1137), tên Nữ Chân là **Niêm Một Hát** (粘没喝), tên lúc nhỏ là Điểu Gia Nô, tướng lĩnh, hoàng thân, khai quốc công thần nhà Kim.
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
nhỏ|trái|Sơ đồ bê tông ứng suất trước **Kết cấu bê tông cốt thép ứng suất trước**, còn gọi là **kết cấu bê tông cốt thép ứng lực trước**, hay **bê tông tiền áp**, hoặc **bê
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
Đại Cồ Việt dưới triều Tiền Lê đã có một cuộc xung đột quân sự với nhà Tống trong năm 995. Phía Đại Cồ Việt đã tổ chức hai cuộc tấn công qua biên giới
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Từ Ngạn Nhược** (, ? - 901), tên tự **Du Chi** (俞之), là một quan lại triều Đường, từng giữ chức _Đồng bình chương sự_ (tức tể tướng) dưới triều đại của Đường Chiêu Tông.
**Chu Chỉ Nhược** (chữ Hán:_周芷若_) là một nhân vật giả tưởng trong truyện Ỷ thiên đồ long ký của Kim Dung. ## Cốt truyện ### Xuất thân Chu Chỉ Nhược là con gái của người
**Vương Chiêu Quân** (chữ Hán: 王昭君), cũng gọi **Minh phi** (明妃) hoặc **Minh Quân** (明君), là một nhân vật chính trị thời nhà Hán, nguyên là cung nhân của Hán Nguyên Đế, rồi trở thành
**Quách Mạt Nhược** (郭沫若; 16 tháng 11 năm 1892 - 12 tháng 6 năm 1978) là một kịch tác gia, thi sĩ, phê bình gia, sử gia, kí giả kiêm chính khách Trung Quốc, Phó
**Nguyễn Nhược Bích** (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự **Lang Hoàn** (嫏嬛), phong hiệu **Tam giai Lễ tần** (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là
**Thôi Chiêu Vĩ** (, ? - 896), tên tự **Uẩn Diệu** (蘊曜), là một quan lại triều Đường, từng giữ chức tể tướng dưới triều đại của Đường Chiêu Tông. Theo sách sử cổ, ông
nhỏ|phải|Tượng Tần Cối và Vương Thị quỳ trước Nhạc Miếu ở Hàng Châu, hai tượng này dùng để người Trung Quốc đến thăm nhằm mục đích phỉ nhổ tội trạng của hai người **Tần Cối**
**Hàn Thác Trụ** (chữ Hán: 韓侂胄, 1152 - 1207), tên tự là **Tiết Phu**, là tể tướng dưới triều Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông nhờ thân phận con cháu của cố tể
**Sự biến Tĩnh Khang** (), còn gọi **Loạn Tĩnh Khang** () hay **Sự sỉ nhục Tĩnh Khang** (), là một biến cố lớn trong lịch sử Trung Quốc xảy ra vào năm 1127, đánh dấu
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Bệnh nhược cơ** hay còn gọi là **nhược cơ** (danh pháp khoa học: **Myasthenia gravis**, viết tắt **MG**; từ gốc Hy Lạp: _μύς ἀσθένεια_ trong đó: _μύς_ có nghĩa là cơ và _ἀσθένεια_ có nghĩa
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
Viên uống vitamin tổng hợp DHC Nhật Bản cung cấp 12 loại vitamin thiết yếu mỗi ngày với hàm lượng đủ và cần thiết giúp tăng cường sức đề kháng, miễn dịch, giảm nguy cơ
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
thumb|250x250px|Tượng Chu Hi tại [[Bạch Lộc Động thư viện ở Lư Sơn]] **Chu Hi** (, ; 18 tháng 10 năm 1130 – 23 tháng 4 năm 1200) tự **Nguyên Hối** (元晦) hoặc **Trọng Hối** (仲晦),
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng