✨Lưu Tống Hậu Phế Đế

Lưu Tống Hậu Phế Đế

Lưu Tống Hậu Phế Đế (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là Lưu Dục (), tên tự Đức Dung (德融), pháp danh Huệ Chấn (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian trị vì của mình, ông chỉ là một cậu bé, song đã thể hiện thói hung bạo và độc đoán, và đến năm 477 ông đã bị tướng Tiêu Đạo Thành sát hại. Tiêu Đạo Thành sau đó lập một người em trai của Tiền Phế Đế là Lưu Chuẩn làm hoàng đế, song đã đoạt lấy ngai vàng vào năm 479, chấm dứt triều Lưu Tống và mở ra triều Nam Tề.

Bối cảnh

Lưu Dục sinh năm 463, khi đó cha của ông Lưu Úc đang mang tước hiệu Tương Đông vương dưới quyền trị vì của bá phụ (của Lưu Dục) Hiếu Vũ Đế. Lưu Dục là con trai cả của Tương Đông vương, và mẹ của ông là một thê thiếp tên Trần Diệu Đăng. (Tương Đông Vương ban đầu không sủng ái Trần thị và đã lại đem bà trao cho một đại thần tứ cấp tên là Lý Đạo Nhi (李道兒) và sau đó lại đưa bà về, và do đó có tin đồn cho rằng cha đẻ của ông là Lý Đạo Nhi chứ không phải Lưu Úc.) Tên tự Huệ Chấn của ông được lấy từ Kinh Dịch, là sách được Tương Đông vương sử dụng nhiều để bói toán.

Tương Đông vương trở thành hoàng đế (tức Minh Đế) sau vụ Tiền Phế Đế (con trai Hiếu Vũ Đế) bị ám sát vào năm 465, sau đó, Minh Đế đã lập Lưu Dục làm thái tử vào năm 466. Khi Thái tử lớn hơn, ông được coi là một đứa trẻ hiếu động quá mức và thích thực hiện những thứ nguy hiểm, chẳng hạn như leo kỳ cán. Lưu Dục thường thay đổi tâm tính và rất bốc đồng, đến nỗi các hầu cận của ông đã không thể ngăn cản ông có những hành vi bạo lực. Minh Đế thường lệnh cho Trần quý nhân đánh Thái tử để trừng phạt. Năm 470, Minh Đế lập cung riêng cho Thái tử.

Năm 472, Minh Đế qua đời, và Thái tử Dục lên ngôi lúc mới chín tuổi, tức Hậu Phế Đế. Hậu Phế Đế phong cho chính thất của phụ hoàng, tức Hoàng hậu Vương Trinh Phong (王貞風), làm hoàng thái hậu, còn Trần quý phi được phong làm "hoàng thái phi."

Trị vì

Sau khi Hậu Phế Đế đăng cơ, triều đình về mặt chính danh nằm trong tay hai đại thần cấp cao mà Minh Đế đã ủy thác là Trữ Uyên (褚淵) và Viên Xán (袁粲). Tuy nhiên, các thân tín của Minh Đế do Nguyễn Điền Phu (阮佃夫) và Vương Đạo Long (王道隆) lãnh đạo, tiếp tục lớn mạnh sau hậu trường và có ảnh hưởng lớn, Trữ và Viên không thể hạn chế quyền lực của họ. Trữ và Viên ngay sau đó đã đưa thêm một họ hàng xa của Tiền Phế Đế là Lưu Bỉnh (劉秉) lên bậc ngang với họ để có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng. Năm 473, mẹ của Viên Xán mất, và Viên đã rời khỏi triều đình để chịu tang ba năm.

Chính quyền của Hậu Phế Đế gần như ngay lập tức đã phải đối phó với hoàng thúc duy nhất còn sống là Quế Dương vương Lưu Hưu Phạm (劉休範), ông ta đồng thời cũng là thứ sử của Giang Châu (江州, nay là Giang Tây và Phúc Kiến). Lưu Hưu Phạm không hài lòng vì mình chỉ được phong làm tư không thị trung rồi thái úy. (Do lo sợ các huynh đệ sẽ lên ngôi sau khi mình qua đời, Minh Đế đã giết chết tất cả các họ vào năm 471, Lưu Hưu Phạm thoát nạn vì Minh Đế coi ông ta là một người bất tài.) Đến mùa hè năm 474, Lưu Hưu Phạm tuyên bố nổi loạn, vu cáo Vương Đạo Long và một thuộc hạ khác của Minh Đế là Dương Vận Trường (楊運長) là chủ mưu trong cái chết của Kiến An vương Lưu Hưu Nhân (劉休仁) và Ba Lăng vương Lưu Hưu Nhược (劉休若). Rút lấy bài học từ cuộc nổi loạn thất bại trước đó vì tiến quân quá chậm, Lưu Hưu Phạm đã hạ lệnh cho quân của mình tiến về kinh thành Kiến Khang nhanh nhất có thể, và quân của Lưu Hưu Phạm đã chỉ mất năm ngày để đến kinh thành. Tướng Tiêu Đạo Thành đã tình nguyện đối mặt với quân của Lưu Hưu Phạm, và mặc dù quân của Lưu Hưu Phạm ban đầu đã chiếm ưu thế trước quân của Tiêu, song các trận chiến không phân thắng bại. Trong khi đó, các thuộc hạ của Tiêu Đạo Thành là Hoàng Hồi (黃回) và Trương Kính Nhi (張敬兒) đã đề xuất một âm mưu, theo đó thì họ sẽ giả vờ đầu hàng Lưu Hưu Phạm và sau đó ám sát ông ta, và Tiêu đã đồng ý. Đúng như kế hoạch, Hoàng và Trương sau đó đã vờ hàng Lưu Hưu Phạm và nắm lấy cơ hội để giết chết ông ta. Tuy nhiên, quân của Lưu Hưu Phạm đã không biết chuyện Lưu Hưu Phạm đã chết và họ lúc đầu vẫn tiếp tục chiến đấu. Một tướng của Lưu Hưu Phạm tên là Đinh Văn Hào (丁文豪) ngay sau đó đã giao chiến và đánh bại quân của Vương Đạo Long và Lưu Miễn (劉勔), và giết chết được hai tướng này, sau đó bao vây hoàng cung. Tuy nhiên, cuối cùng thì quân của Đinh đã biết về việc Lưu Hưu Phạm đã chết, và bắt đầu tự sụp đổ. Tiêu và Viên (đã trở lại triều đình do tình trạng nguy cấp) sau đó đã đánh bại đám quân còn lại của Lưu Hưu Phạm, kết thúc cuộc nổi loạn. Sau chiến thắng, Tiêu Đạo Thành được thăng chức, trở thành một trong những người ra các quyết định cùng với Viên, Trữ và Lưu Bỉnh.

Trong khi đó, Hậu Phế Đế đã bắt đầu trở nên loạn trí và thiếu đạo đức. Thần dân quay sang kỳ vọng vào người anh họ của ông là Kiến Bình vương Lưu Cảnh Tố (劉景素), là một người đã trưởng thành và được coi là có tình ân cần và hào phóng. Nhiều quan võ hy vọng tham gia một cuộc nổi loạn của Lưu Cảnh Tổ. Trong khi đó, hai người muốn nắm giữ quyền lực là Dương Vận Trường và Nguyễn Điền Phu thì muốn loại bỏ mối đe dọa tiềm năng này. Năm 475, họ vu cáo rằng Lưu Cảnh Tố âm mưu phản loạn và cho bắt giữ ông ta, song đã bị Viên và Tiêu ngăn chặn. Tuy nhiên, đến mùa hè năm 476, một trong số các quan võ hy vọng Lưu Cảnh Tố nổi loạn đã đến đại bản doanh của Lưu Cảnh Tố tại Kinh Khẩu (京口, nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô), nói dối Lưu Cảnh Tố rằng Kiến Khang đang xáo trộn và Lưu Cảnh Tố cần nhanh chóng tiến về Kiến Khang và đoạt lấy ngai vàng. Do đó, Lưu Cảnh Tố đã bắt đầu cuộc nổi loạn của mình, song quân của ông ta thiếu các tướng giỏi. Trong lúc đó, Tiêu đã cử Hoàng Hồi đi đánh Lưu Cảnh Tố, Hoàng Hồi mặc dù trong lòng thông cảm với Lưu Cảnh Tố song không dám quay sang tấn công Tiêu vì các thuộc hạ của ông ta đều là thân tín của Tiêu. Hoàng Hồi sau đó đánh bại quân phiến loạn, Lưu Cảnh Tố bị bắt và bị giết chết.

Năm 477, danh tiếng của Hậu Phế Đế lại một lần nữa bị khinh thường xen lẫn lo sợ, lúc này Vương Thái hậu và Trần Thái phi đã hoàn toàn mất kiểm soát đối với ông, và ông làm tất cả mọi thứ mà mình thích. Các cận vệ sẽ đi cùng ông, và họ sẽ sát hại những người hay động vật và mà họ bắt gặp, thường là theo các cách tàn nhẫn. Hậu Phế Đế sẽ đích thân cắt chém các nạn nhân, và nếu ông không giết người vào một ngày nhất định, ông sẽ chản nản cả ngày. Do Hậu Phế Đế dời và nhập cung bất kể ngày hay đêm, lính canh hoàng cung không dám khóa cổng thành. Tình hình trở nên nghiêm trọng đến mức ngay cả Nguyễn, là người muốn giữ Hậu Phế Đế tiếp tục nắm quyền, đã chuyển sang lập mưu nhằm lật đổ ông, song đã bị phát hiện và bị hành quyết. Khi Hậu Phế Đế nhận được báo cáo rằng các quan Đỗ Ấu Văn (杜幼文), Thẩm Bột (沈勃), và Tôn Siêu Chi (孫超之) là một phần trong âm mưu của Nguyễn, ông đã dẫn cận binh của mình và đích thân hành hình ba người này cùng gia đình của họ, cắt các thi thể thành nhiều mảnh, thậm chí là cả trẻ em.

Vào một ngày đặc biệt, Hậu Phế Đế đã tấn công đại bản doanh của Tiêu Đạo Thành và trông thấy Tiêu đang ngủ lõa thể. Hậu Phế Đế thích thú với cái bụng lớn của Tiêu, và ông đã đánh thức Tiêu dậy, ngắm một mục tiêu trên bụng của Tiêu và chuẩn bị sẵn sàng dùng mũi tên để bắn. Tiêu đã cầu xin tha mạng, và một hầu cận của Hậu Phế Đế là Vương Thiên Ân (王天恩) đã chỉ ra rằng nếu ông giết chết Tiêu bằng một mũi tên, ông sẽ mất một mục tiêu tuyệt vời là bụng của Tiêu. Theo đề xuất của Vương, Hậu Phế Đế đã bắn Tiêu bằng một mũi tên đầu tròn làm bằng xương và hài lòng khi ông đã có thể bắn thành công vào mục tiêu là rốn của Tiêu. Sau sự việc này, Tiêu trở nên sợ hãi và đã ban đầu thảo luận với Viên và Trữ về khả năng phế truất Hậu Phế Đế, song không thể lôi kéo được họ tham gia vào kế hoạch của mình. Thay vào đó, ông lên kế hoạch một cách độc lập với một số cộng sự của mình, và ông cũng đạt được thỏa thuận với một số hầu cận của Hậu Phế Đế. Vào đêm Thất Tịch năm 477, một hầu cận của Hậu Phế Đế là Dương Ngọc Phu (楊玉夫), là người trước đó bị Hậu Phế Đế đe dọa giết, đã cắt thủ cấp của Hậu Phế Đế khi ông đang ngủ, và đưa thủ cấp đến cho Tiêu thông qua thuộc cấp của Tiêu tên là Vương Kính Tắc (王敬則). Ngay lập tức, Tiêu tiến vào hoàng cung với thủ cấp của hoàng đế, các cận binh hoàng cung quá khiếp sợ khi hay tin về cái chết của ông. Tiêu sau đó đã ban hành một chiếu chỉ có tên của Vương Thái hậu nhằm hợp pháp hóa vụ ám sát và giáng thụy hiệu của Hậu Phế Đế thành "Thương Ngô vương", trong khi lập người em trai Hậu Phế Đế là An Thành vương Lưu Chuẩn làm hoàng đế (tức Thuận Đế).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**Lộ hoàng hậu** (chữ Hán: 路皇后), không rõ tên thật, là hoàng hậu của Lưu Tống Tiền Phế Đế Lưu Tử Nghiệp trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Phụ thân của Lộ hoàng
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Lưu Tống Thuận Đế** (chữ Hán: 劉宋順帝; 467–479), tên húy là **Lưu Chuẩn** (), tên tự **Trọng Mưu** (仲謀), biệt danh **Trí Quan** (智觀), là một hoàng đế của triều Lưu Tống trong lịch sử
thumb|Tượng thờ [[Đinh Phế Đế - vị _Phế Đế_ đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam.]] **Phế Đế** (chữ Hán: 廢帝) là một danh từ, thường dùng như một cách gọi của
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Nam Tề Cao Đế** (chữ Hán: 南齊高帝; 427–482), tên húy là **Tiêu Đạo Thành** (), tên tự **Thiệu Bá** (紹伯), tiểu húy **Đấu Tương** (鬥將), là hoàng đế sáng lập nên triều đại Nam Tề
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Vương Trinh Phong** (chữ Hán: 王貞風, 436–479), thụy hiệu: **Minh Cung hoàng hậu** (明恭皇后), là hoàng hậu dưới triều Lưu Tống Minh Đế (劉宋明帝) Lưu Úc trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Vương
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Tử Huân** () (456–466), tên tự **Hiếu Đức** (孝德), là một thân vương và người tranh chấp ngôi vua triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã nhận được lời tuyên bố
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong
**Giang Giản Khuê** (chữ Hán: 江簡珪) là hoàng hậu của Lưu Tống Hậu Phế Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Giang Giản Khuê xuất thân quý tộc, người Tế Dương quận, Khảo
**Tiêu Trưởng Mậu** (蕭長懋) (458–493), tên tự **Vân Kiều** (雲喬), biệt danh **Bạch Trạch** (白澤), tước hiệu chính thức là **Văn Huệ thái tử** (文惠太子), sau được truy thụy **Văn hoàng đế** (文皇帝) cùng miếu
**Lưu Sở Ngọc** (chữ Hán: 劉楚玉; ? - 2 tháng 1, 466), còn được biết đến qua phong hiệu **Sơn Âm công chúa** (山陰公主), là một công chúa của triều đại Lưu Tống, con gái
**Tấn Phế Đế** (, (342 – 23 tháng 11 năm 386), tên thật là **Tư Mã Dịch** (司馬奕), tên tự **Diên Linh** (延齡), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Đông Tấn, và là
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 554?- 570), tên húy **Trần Bá Tông** (陳伯宗), tên tự **Phụng Nghiệp** (奉業), tiểu tự **Dược Vương** (藥王), là một hoàng đế của triều đại Trần trong lịch sử
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Lộ Huệ Nam** (; 412 – 24 tháng 2, năm 466), thụy hiệu **Chiêu thái hậu** (昭太后), hay còn gọi là **Sùng Hiến thái hậu** (崇憲太后), là phi tần của Lưu Tống Văn Đế và
**Vương Hiến Nguyên** (chữ Hán: 王憲嫄; 427 – 9 tháng 10, 464), thụy hiệu **Văn Mục hoàng hậu** (文穆皇后), là hoàng hậu của Lưu Tống Hiếu Vũ Đế Lưu Tuấn, mẹ của Tiền Phế Đế
**Thọ Tịch Chi** (, ? - 471), người quận Ngô Hưng (nay thuộc Chiết Giang), là quan nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Ông vốn là Chủ y trong cung.
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
** Chế độ tổng tài** (tiếng Pháp: _Le Consulat_) là chính phủ cấp cao nhất của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp kể từ sự sụp đổ của Chế độ đốc chính trong cuộc Đảo chính
**Vương Huyền Mô** (chữ Hán: 王玄谟, 388 – 468) là tướng lãnh nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Huyền Mô tự Ngạn Đức. Gia đình của
**Tông Việt** (chữ Hán: 宗越, 408 – 466), người đất Diệp, quận Nam Dương, là tướng lĩnh nhà Lưu Tống thời Nam triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Binh nghiệp Tông Việt xuất thân
**Vương Bảo Minh** (chữ Hán: 王寶明, 455–512), thụy hiệu **Văn An hoàng hậu** (文安皇后), hay còn có hiệu là **Tuyên Đức Thái hậu** (宣德太后), là thái tử phi của thái tử Tiêu Trưởng Mậu và
thumb|upright=1.35|right|alt=Bản đồ toàn cầu về sự tăng nhiệt độ nước biển từ 0,5 đến 300 độ Celsius; nhiệt độ đất liền tăng từ 10000 đến 20000 độ Celsius; và nhiệt độ vùng Bắc cực tăng
**Viên Sùng Tổ** (; 440 – 483), tên tự là **Kính Viễn**, sinh quán Hạ Bi , nguyên quán Hoàn Đạo, Lược Dương, là tướng lĩnh nhà Lưu Tống, nhà Nam Tề trong lịch sử
thumb|right|Changsha=Trường Sa **Trường Sa** () là phong quốc chư hầu thời Tây Hán, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Trần trong lịch sử Trung Quốc, ngày nay thuộc địa phận tỉnh Hồ Nam ## Dưới thời
**Lưu Tông** (chữ Hán: 劉琮; 191-?) là Châu mục Kinh châu đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông kế nghiệp Lưu Biểu ở Kinh châu trong một thời gian ngắn và quy
Giang Hạ vương **Tiêu Phong** (chữ Hán: 萧锋, 475 – 494), tự Tuyên Dĩnh, tên lúc nhỏ Đồ Lê, hoàng tử nhà Nam Tề thời Nam Bắc triều. ## Tiểu sử Phong là hoàng tử
**Tông Xác** (chữ Hán: 宗愨, ? – 465) tự là **Nguyên Thiên**, người Niết Dương quận Nam Dương, tướng lĩnh nhà Lưu Tống thời Nam triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Binh nghiệp Tông
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
**Hiến Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:獻皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Đông Hán Hiếu Hoàn Đế Ý Hiến hoàng
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong