Hiếu Mục Kỷ Thái hậu (chữ Hán: 孝穆紀太后; 1451 - 1475), cũng gọi Kỷ Thục phi (紀淑妃) hoặc Hiếu Mục Hoàng hậu (孝穆皇后), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm và là sinh mẫu của Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường.
Thân thế
Căn cứ vào Minh sử cùng Minh thực lục, Kỷ thị sinh khoảng Cảnh Thái thứ 2 (1451), là người Dao, là con gái một quan viên địa phương vùng man (Thổ quan; 土官) vùng Lý Đường trại (李糖寨; nay là khu vực Liên Sơn, Thanh Viễn của tỉnh Quảng Đông). Vào lúc này cha mẹ Kỷ thị đều mất sớm, thế là bà được thân quyến ở huyện Hạ (賀縣), nay là Hạ Châu thuộc tỉnh Quảng Tây.
Năm Thành Hóa thứ 2 (1466), nhà Minh mở cuộc chinh phạt các dân tộc thiểu số ở Quảng Tây (1466), Kỷ thị cùng rất nhiều người bị bắt về Tử Cấm Thành làm tù binh. Nhưng vì Kỷ thị thông minh, nhanh nhẹn nên được giao chức Nữ quan, có nhiệm vụ quản lý Nội tàng khố trong cung. Minh Hiến Tông vô tình bắt gặp Kỷ thị và sủng hạnh. Sau đó liền mang thai.
Sinh hạ hoàng tử
Năm Thành Hoá thứ 6 (1470), ngày 3 tháng 7 (tức ngày 30 tháng 7 dương lịch), Kỷ thị hạ sinh được một người con trai, đó là Chu Hựu Đường (朱祐樘).
Khi nghe tin mình có thai, Kỷ thị hoảng sợ mà dùng thuốc phá thai nhưng không thành. Tin một cung nhân phá thai sau đó đã lan đến tai của Vạn Quý phi, một ái phi của Hiến Tông. Minh sử ghi lại, Vạn Quý phi vì sợ bị thất sủng mà thường hay ra tay hại các Hoàng tử của Hiến Tông. Nghe tin Kỷ thị vì phá thai hỏng mà sinh bệnh, Vạn Quý phi đã sai người khám để chứng thực hư. Người cung nữ đó thương xót Kỷ thị nên đã nói dối với Vạn Quý phi rằng Kỷ thị mắc bệnh nên bụng phình trương ra. Quý phi tin vậy, nên sai Thái giám Trương Mẫn đưa Kỷ thị vào An Lạc đường cư trú. Nhờ đó giữ được mạng sống của đứa bé.
Khi Kỷ thị sinh ra, trông thấy là một Hoàng tử thì rất hoảng sợ. Bà cầu xin Thái giám Trương Mẫn dìm đứa bé đi, Trương Mẫn nói: ["Hoàng đế không có nhi tử, có thể nào làm như vậy!?"]. Thế là Trương Mẫn đem giấu đứa bé ở trong chỗ của mình, gạt Quý phi mà đem mật đút cho đứa bé. Khi ấy Hoàng hậu Ngô thị của Hiến Tông cũng bị phế đến Tây cung, nên bà chăm sóc cho Chu Hựu Đường chu đáo. Vào lúc đó, con của Bách Hiền phi là Hoàng nhị tử Chu Hựu Cực nhưng bị Quý phi hại chết, nên Chu Hựu Đường trở thành Hoàng trưởng tử của Hiến Tông, nhưng bản thân ông không biết điều này. Năm thứ 11 (1475), Hiến Tông triệu Trương Mẫn vào cung hầu hạ rồi than: ["Ta đã già mà không có nổi một đứa con để nối dõi!"]. Trương Mẫn nhân đó kể lại chuyện mẹ con Kỷ thị, người sinh được Hoàng trưởng tử.
Minh Hiến Tông mừng rỡ phái người đón đứa bé vào cung, khi sứ giả đến thì Kỷ thị ôm con của mình mà khóc, nói: ["Con đi đi, ta chỉ sợ không sống được. Nhìn thấy người nào mặc áo Bào màu vàng, ấy chính là Phụ hoàng của con"]. Khi ấy Chu Hựu Đường chập chững mặc áo, khi gặp Hiến Tông thì ôm chầm lấy, Hiến Tông vui vẻ cực điểm mà hạ chỉ tế cáo Tổ tông. Sau đó, Kỷ thị được chuyển đến sống tại Vĩnh Thọ cung trong Tây Lục cung. Khi nghe được tin này, Vạn Quý phi ngày đêm khóc mà nói: ["Các người các ngươi đều lừa gạt ta!"]. Không lâu sau đó, tháng 6 (ÂL), Kỷ thị đột ngột qua đời, Minh sử ghi rằng có tin đồn là do chính Vạn Quý phi đã hạ sát bà. Thái giám Trương Mẫn sau khi nghe Kỷ phi bạo bệnh thì cũng nuốt vàng tự sát. Minh Hiến Tông đã truy phong cho Kỷ thị làm Cung Khác Trang Hy Thục phi (恭恪莊僖淑妃).
Hậu sự
Sau cái chết của Kỷ Thục phi, Hoàng tử Chu Hựu Đường được tấn lập làm Hoàng thái tử, chuyển đến Nhân Thọ cung của Hiếu Túc Thái hậu Chu thị để đảm bảo an toàn.
Một ngày, Vạn Quý phi triệu Thái tử đến cung của mình dùng cơm, Chu Thái hậu dặn riêng Thái tử cứ đi đến nhưng không ăn hay uống bất kỳ thứ gì. Khi Thái tử đến cung của Vạn Quý phi, ban đồ ăn hoặc dâng tiến canh ngọt đều bị từ chối. Vạn Quý phi tức giận mà nói: ["Đứa nhỏ này còn bé thế đã như vậy. Sau này tất bất lợi cho ta"]. Vì thế, Quý phi xúi Hiến Tông phế Thái tử, lập Hưng vương Chu Hữu Nguyên thay thế. Khi Hiến Tông muốn ngả theo, thì các Thái giám Hoài Ân liên kết Khâm thiên giám nói Thái Sơn có động, ứng điềm về Đông Cung. Minh Hiến Tông lúc này sợ hãi, không dám trái ý trời nên không nghe Quý phi nữa. Vạn Quý phi ngày càng lo sợ nên sinh bệnh rồi mất.
Năm Thành Hóa thứ 23 (1487), Minh Hiến Tông băng hà, Hoàng thái tử Chu Hựu Đường, tức Minh Hiếu Tông. Vừa khi lên ngôi, Hiếu Tông đã truy tôn cho mẹ mình thụy hiệu mới là Hiếu Mục Từ Huệ Cung Khác Trang Hy Sùng Thiên Thừa Thánh Hoàng thái hậu (孝穆慈慧恭恪莊僖崇天承聖皇太后), cải táng tại Mậu lăng (茂陵) cùng với Hiến Tông, biệt thờ tại Phụng Từ điện (奉慈殿).
Ông hoài niệm mẹ mình, nên thử cho tìm thân nhân họ Kỷ, phát hiện được 2 người tên Kỷ Phụ Quý (紀父貴) cùng Kỷ Tổ Vượng (紀祖旺) là em của Thái hậu, cho đổi thành "Kỷ Quý" và "Kỷ Vượng", phong làm Cẩm y vệ Chỉ huy Đồng trị và Thiêm sự, đồng thời căn cứ lời của Quý và Vượng để truy phong 3 đời. Nhưng vốn bà là bị bắt vào cung, chỉ biết mang họ Kỷ người huyện Hạ mà không có thân thích, nhiều người đều biết, và lợi dụng để tự xưng là thân thích của Kỷ Thái hậu. Khi Hiếu Tông truy tìm tông tích, có Thái giám Lục Khải (陸愷) vốn họ Lý, tự thấy Lý và Kỷ đồng âm, nên xưng là anh của Thái hậu, cuối cùng khi Hiếu Tông tra ra sự thật thì đến Kỷ Quý cùng Kỷ Vượng đều không phải tộc nhân của Thái hậu, nên bị đoạt chức và biếm truất, những ai có liên quan cũng bị liên lụy. Từ đó Hiếu Tông khổ sở cầu thông tin nhà mẹ của Kỷ Thái hậu, nhưng đều không được. Hết cách, vào năm Hoằng Trị thứ 3 (1490), Minh Hiếu Tông phải làm theo cách mà Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương truy phong cha mẹ của Mã Hoàng hậu, đành phải truy tặng danh dự cha của Kỷ thị (không rõ tên) làm Quan lộc đại phu, Trụ quốc, tước Khánh Nguyên bá (慶元伯), còn mẹ (không rõ tên) cũng là Bá Phu nhân, lập miếu ở Quế Lâm.
Năm Gia Tĩnh thứ 15 (1536), Minh Thế Tông Chu Hậu Thông đã xử lý xong Đại lễ nghị. Lúc này Thế Tông theo vai vế là cháu gọi Hiếu Tông bằng bác, cho nên đã rút bớt đi chữ ["Thái"; 太] trong thuỵ của bà. Vì thế, thuỵ chính thức của bà là Hiếu Mục Từ Huệ Cung Khác Trang Hy Sùng Thiên Thừa Thánh Hoàng hậu (孝穆慈慧恭恪莊僖崇天承聖皇后).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Mục Kỷ Thái hậu** (chữ Hán: 孝穆紀太后; 1451 - 1475), cũng gọi **Kỷ Thục phi** (紀淑妃) hoặc **Hiếu Mục Hoàng hậu** (孝穆皇后), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm và
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Hiếu Dực Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝翼章皇后; 19 tháng 6, 1397 - 16 tháng 1, 1462), thông gọi **Tuyên Miếu Ngô Hiền phi** (宣廟吳賢妃), là phi tần của Minh Tuyên Tông Tuyên Đức Đế,
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
**Hiếu Thuần Hoàng hậu Lưu thị** (孝纯皇后刘氏, 1588 - 1615), không rõ tên thật, nguyên là phi tần của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc và là mẹ đẻ của Minh Tư Tông Chu Do
**Viên Quý phi** (chữ Hán: 袁贵妃, 1616 - 1654), là phi tần của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Khi
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Minh Nhân Tông** (chữ Hán: 明仁宗, 16 tháng 8, 1378 - 29 tháng 5, 1425), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ cai trị trong một
**Minh Đại Tông** (chữ Hán: 明代宗; 21 tháng 9 năm 1428 – 23 tháng 3 năm 1457), là vị Hoàng đế thứ bảy của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Trong 7 năm trị
**Vi Hiền phi** (chữ Hán:韦贤妃, ? - 809), là phi tần của Đường Đức Tông Lý Quát. Bà nổi tiếng vì việc thờ cúng chồng mình cho đến tận khi qua đời. ## Đường triều
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Minh Hy Tông** (chữ Hán: 明熹宗; 23 tháng 12 năm 1605 – 30 tháng 9 năm 1627), là vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm
**Thục phi** (chữ Hán: 淑妃) là một tước hiệu được phong cho các phi tần trong thời phong kiến ở vùng Á Đông. ## Trung Quốc ### Tấn * Thục phi Lưu Viện, phi tần
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Tiêu Thục phi** (chữ Hán: 蕭淑妃, ? - 655), Cựu Đường thư cùng Tân Đường thư chép là **Cao Tông Tiêu Lương đệ** (高宗蕭良娣) hoặc **Lương đệ Tiêu thị** (良娣蕭氏) hay **Thứ nhân Lương đệ**
**Phí Minh Long** (sinh 11 tháng 2 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ PVF-CAND. ## Sự nghiệp câu lạc
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của Donald Trump** là chiến dịch tranh cử tổng thống cho cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang diễn ra của cựu tổng thống thứ
**Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 của Joe Biden** bắt đầu vào ngày 25 tháng 4 năm 2019 khi ông đăng tải một video tuyên bố ứng cử vào cuộc bầu cử tổng
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Phạm Minh Chính** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2020** diễn ra vào thứ Ba ngày 3 tháng 11 năm 2020, là cuộc bầu cử tổng thống thứ 59 liên tục 4 năm 1 lần trong
thumb|right|Một cột chống xây dựng bằng bê tông cốt thép trước và sau khi đổ bê tông. **Bê tông cốt thép** (trong tiếng Anh: reinforced concrete) viết tắt (BTCT) là một loại vật liệu composite
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2024** là cuộc bầu cử tổng thống thứ 60 liên tiếp 4 năm 1 lần, diễn ra vào thứ Ba ngày 5 tháng 11 năm 2024. Liên
**Chương Ý Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 章懿李皇后; 987 - 1032), nhưng rất hay được gọi là **Lý Thần phi** (李宸妃), nguyên là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng. Về sau, do
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
nhỏ|Tiền thời Trần Hiến Tông. **Trần Hiến Tông** (chữ Hán: 陳憲宗 17 tháng 5 năm 1319 – 11 tháng 6 năm 1341) là vị hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Trần trong lịch
**Hòa Kính Thục tần Thôi** **thị** (chữ Hán: 和敬淑嬪崔氏; Hangul: 숙빈 최씨; 6 tháng 11 năm 1670 - 9 tháng 3 năm 1718), còn gọi là **Dục Tường Cung** (毓祥宮), là một Hậu cung tần
**Cuộc không kích của Mỹ tại Syria năm 2014** là một cuộc tấn công bằng không quân của lực lượng quân đội Hoa Kỳ và một số quốc gia Ả Rập vào Nhà nước Hồi
**Minh Thập Tam lăng** () là tập hợp các lăng mộ được xây dựng bởi các Hoàng đế triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Lăng mộ của vị Hoàng đế đầu tiên
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**_Long môn phi giáp_** () là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại kiếm hiệphành động hợp tác sản xuất giữa điện ảnh Hồng Kông và Trung Quốc, do Từ Khắc làm đạo diễn,
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông