✨Quân đội nhà Minh

Quân đội nhà Minh

Quân đội nhà Minh là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối triều Nguyên dưới sự lãnh đạo của Chu Nguyên Chương - người sau đó đã trở thành hoàng đế khai quốc của nhà Minh. Về mặt biên chế, quân đội nhà Minh cũng như các triều đại trước được chia làm hai loại, cấm quân và quân địa phương. Cấm quân được tổ chức thành Tam Đại Doanh gồm Tam Thiên Doanh, Ngũ Đoàn Doanh và Thần Cơ Doanh. Quân địa phương được tổ chức theo chế độ Vệ Sở, binh lính theo đó cha truyền con nối. Chế độ vệ sở của nhà Minh với mục đích nhằm thiết lập một hệ thống quân sự tự cung tự cấp, giảm nhẹ chi phí của triều đình cho quân đội trong khi vẫn duy trì được lực lượng quân sự đông đảo, tuy nhiên từ giữa thế kỷ XV trở về sau, tình trạng tham nhũng, cướp đoạt ruộng đất của binh lính dẫn đến tình trạng đào ngũ, sức chiến đấu quân đội giảm sút. Đến hậu kỳ nhà Minh, chế độ vệ sở chỉ còn trên danh nghĩa, lực lượng quân sự chủ yếu phụ thuộc vào lực lượng đánh thuê hoặc tư binh.

Tóm tắt

Các hoàng đế nhà Minh từ Hồng Vũ đến Chính Đức (1368 - 1521) về cơ bản tiếp nhận và phát triển các thể chế quân sự sẵn có từ thời nhà Nguyên như thể chế binh dân hợp nhất, huấn luyện cưỡi ngựa bắn cung và sử dụng người Mông Cổ phục vụ trong quân đội nhà Minh, đặc biệt trong lực lượng kỵ binh. Cho đến cuối thế kỷ XVI, người Mông Cổ vẫn đóng vai trò quan trọng trong các lực lượng quân sự nhà Minh, thậm chí cấu thành 1/3 nhân sự Cẩm Y Vệ, ngoài ra vai trò của những người Nữ Chân trong quân đội cũng được ghi nhận. Thể chế quân đội dựa vào kỵ binh rất được các hoàng đế nhà Minh coi trọng.

Trong Quốc Tử Giám, ngoài việc học tập các kinh điển của Nho Giáo, cưỡi ngựa bắn cung rất được Hồng Vũ đế nhấn mạnh, và được đưa vào trong khoa cử. Kể từ năm Hồng Vũ thứ 3 (1370), cưỡi ngựa bắn cung chính thức được đưa vào Khoa Cử, cũng như trước đó nó đã trở thành một trong những tiêu chuẩn bắt buộc cho các văn quan tại Võ cử kể từ thời Tống Hiếu Tông.

Vệ sở chế và Mộ binh chế

nhỏ|317x317px|Pháo thủ quân Minh. nhỏ|Đội hình Uyên Ương Trận trong Kỷ Hiệu Tân Thư

Vệ Sở chế

Chế độ vệ sở (衛所制) được hoàng đế khai quốc nhà Minh Chu Nguyên Chương thiết lập là chế độ quân sự địa phương lấy cảm hứng từ Phủ binh chế (府兵制) của Bắc Ngụy, Tùy, Đường và Vạn hộ chế (万户制) của nhà Nguyên. Những binh sĩ thế tập được cấp ruộng đất từ các đồn điền quân sự tự cung tự cấp. Binh sĩ trong các vệ sở luân phiên thực hiện canh tác đất đai trong ruộng đất được cấp ở đồn điền quân sự và tập trung về các doanh trại tại địa phương hoặc kinh đô để huấn luyện chiến đấu và sử dụng hỏa khí. Có thể coi vệ sở như là một loại "Ngụ binh ư nông", Minh Thái tổ từng khoe khoang: "Trẫm dưỡng binh trăm vạn, không phí bách tính một hạt cơm"!

Về mặt cơ cấu, binh sĩ Vệ sở được cơ cấu như sau. 11 đến 12 người lập thành một Tiểu kỳ (小旗), 5 tiểu kỳ lập thành một Tổng kỳ (總旗), 2 tổng kỳ kỳ lập thành một Bách hộ sở (百戶所), 10 bách hộ sở lập thành một Thiên hộ sở (千戶所), 5 thiên hộ sở lập thành một Vệ sở. Như vậy mỗi vệ bao gồm 5600 người. Các vệ sở do Ngũ Quân Đô Đốc Phủ và Binh Bộ quản lý, trong đó Ngũ Quân Đô Đốc Phủ nắm quyền thống lĩnh, trong khi quyền điều động thuộc về Binh Bộ.

Về nguồn tuyển binh, binh sĩ trong vệ sở được chọn từ các quân hộ thế tập, chiếm khoảng 20% số hộ khẩu toàn quốc đầu triều Minh. Mỗi quân hộ cử một tráng đinh gia nhập Vệ sở, nếu người đó chết thì phải cử một tráng đinh khác thay thế.

Có bốn cách để một hộ gia đình trở thành quân hộ. Thứ nhất, đó là gia đình có người từng tham gia khởi nghĩa sáng lập triều đình. Thứ hai, đó là những hộ gia đình có người từng chiến đấu chống lại nhà Minh, có thể từ nhà Nguyên hoặc các quân phiệt khác, nhưng đã đầu hàng và được tiếp nhận vào quân Minh.

Hồng Vũ đế đã ra lệnh thiết lập 56 thủy sư vệ, mỗi vệ gồm 50 chiến thuyền và 5000 thủy quân. Tuy nhiên hầu hết lực lượng này chiến lực tương đối yếu. Quy mô hải quân nhà Minh sau đó đã được mở rộng dưới thời Vĩnh Lạc. Hải quân nhà Minh lúc này được chia thành hạm đội hoàng gia đóng tại Nam Kinh, hai hạm đội duyên hải bao gồm hạm đội Tây Dương của Trịnh Hòa và hạm đội vận chuyển lương thực.

Sau các cuộc viễn dương của Trịnh Hòa dưới thời Vĩnh Lạc, chính sách mở rộng lực lượng thủy sư bị lung lay do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Bất chấp mâu thuẫn trong nội bộ triều đình nhà Minh với vấn đề hải quân, Hạm đội Bảo thuyền vẫn có thể thống trị những lực lượng hải quân châu Á khác, điều này cho phép nhà Minh cử các quan lại hoặc thiết lập tuyên úy sứ cai trị Lữ Tống (Luzon) và Cự Cảng (Palembang), cũng như can thiệp vào nội bộ các quốc gia như Sri Lanka và Bataks. Nhiều binh sĩ thường xuyên phải làm những công việc chỉ để phục vụ lợi ích riêng cho các tướng lĩnh. Ngoài ra binh sĩ còn được tận dụng để vận chuyển lương thảo trên khắp đất nước. Thực tế họ không khác gì những nhân công làm thuê thay vì là một người lính thực sự. Các tướng lĩnh, địa chủ, cường hào, thậm chí quan lại đã lợi dụng quyền lực chiếm đoạt ruộng đất đồn điền và biến nó thành điền trang của họ, sau đó buộc các binh sĩ trở thành tư nô cày cấy cho họ. Hòa bình lâu dài, trừ những khu vực biên cương nơi phải chiến đấu chống lại các bộ tộc du mục, đã khiến binh sĩ trong các quân hộ thế tập không muốn tham gia quân đội nữa và phải hối lộ cho các tướng lĩnh để trốn thực hiện huấn luyện. Tham nhũng từ vệ sở đó phát triển đến mức những phú thương muốn thâu tóm ruộng đất cũng lợi dụng kẽ hở để hối lộ cho các quan lại nhằm kiếm một chức vụ chỉ huy trong vệ sở, khuyến khích binh sĩ hối lộ để không phải tham gia chiến trận hoặc huấn luyện, hoặc tiến hành khai khống số lượng binh sĩ để tham ô quân lương triều đình phát xuống. Một số binh sĩ đào ngũ khỏi vệ sở và trở thành giặc cướp bởi vì không đủ lương thực để nuôi sống bản thân và gia đình.

Một vấn đề phức tạp khác đó là những binh sĩ cùng quân hàm lại không có cùng quyền hạn. Những binh sĩ giàu có hơn có thể hối lộ cấp trên để có vị trí tốt hơn và hưởng nhiều quyền lợi hơn người khác trong vệ sở.

Vì hầu hết quân hộ không muốn phục vụ trong quân đội, những tráng đinh trong các quân hộ được chọn đi tòng quân có thể nhận được một số khoản bồi thường từ các tráng đinh khác trong gia đình. Ví dụ, họ có thể trở thành người thừa kế tiếp theo ngay cả khi họ không phải là con trưởng, bằng cách tình nguyện tòng quân. Do người được thừa kế có trách nhiệm quan trọng trong gia tộc, do đó địa vị xã hội của người đó sẽ được nâng cao do được kế thừa các đặc quyền của cha mình. Trong một quân hộ, những tráng đinh tòng quân ở những vùng đất cách xa quê nhà của họ thường dẫn đến mối quan hệ của họ với gia tộc bị suy giảm. Để chống lại điều này, một khoản trợ cấp được phát cho những người binh sĩ đang tòng quân trong một nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ đào ngũ của những người lính phục vụ trong vệ sở và giúp duy trì mối liên kết giữa gia đình của người lính với tổ tiên của họ. Khoản trợ cấp đã tạo ra lý do để các thành viên gia đình của người lính thường xuyên về thăm nhà tổ tiên của họ để thu tiền thanh toán và do đó duy trì mối quan hệ của họ.

Tuy nhiên cũng có một số địa phương có quan điểm khác nhau về chế độ quân sự. Ở khu vực biên giới do chiến tranh nên các Vệ sở tại đây tiến hành chế độ mộ binh (募兵制 - Mộ binh chế), theo đó binh sĩ được tuyển chọn không phân biệt vùng miền, chế độ này mặc dù làm gia tăng chi phí quân sự nhưng bù lại năng lực chiến đấu của binh sĩ trong vệ sở được cải thiện. Ví dụ ở huyện Nghĩa Ô, danh tướng Thích Kế Quang đã tiến hành tuyển quân với xuất thân rất đa dạng, từ nông dân cho đến những học sinh Thái học tại địa phương. Điều này đã tạo nên tiềm năng phát triển lực lượng quân sự và đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận.

Mộ Binh chế

Sự suy tàn của chế độ Vệ sở đã buộc nhà Minh thay đổi chế độ quân sự sang chiêu mộ binh lính, được gọi là mộ binh chế (募兵制). Trong chế độ này, lính đánh thuê được tuyển mộ trên khắp địa phương nhằm cải thiện khả năng chiến đấu cũng như giảm nhẹ gánh nặng quân sự tại địa phương.

Những binh sĩ được tuyển mộ thông qua mộ binh chế cho phép củng cố hàng ngũ, gia tăng sức chiến đấu và mở rộng quy mô các đội quân vốn phần lớn từ các quân hộ. Nguồn tuyển mộ vô cùng đa dạng, có thể là lưu dân, học sinh, hoặc tráng đinh trong các quân hộ khác tình nguyện nhập ngũ. Quân đội kiểu mới (không thuộc quân hộ) này trở thành một nhóm riêng biệt và thống nhất trong quân đội; họ sẽ cùng nổi dậy binh biến nếu gặp những vấn đề phân biệt đối xử hay không được trả lương đúng hạn. Sự kiện binh biến Ngô Kiêu (1632-1633) là một ví dụ, việc đốc sư Viên Sùng Hoán vô cớ buộc tội và giết chết tổng binh Mao Văn Long vào năm 1629 đã khiến binh sĩ dưới quyền Mao bất bình, khiến họ nổi dậy binh biến và đào thoát sang Hậu Kim, trong khi trước đó bản thân Viên Sùng Hoán đã bị hoàng đế Sùng Trinh xử lăng trì vào năm 1630.

Do địa vị xã hội của nghề lính không cao, nên những binh sĩ được tuyển mộ phần đông đến từ những tầng lớp thấp kém trong xã hội như trộm cướp hoặc lưu dân. Kỷ luật và năng lực chiến đấu của những binh sĩ này cũng vì thế mà không có sự đồng nhất. Dân quân từ các đoàn luyện đáng tin và dễ sai khiến hơn những tên xuất thân du thủ du thực. Các tướng lĩnh chỉ huy đã hạn chế việc huấn luyện và cải tổ mạnh các cánh quân này do lo sợ nổi loạn, và các tướng lĩnh chiến đấu chủ yếu dùng gia binh thay vì cố gắng kiểm soát và tạo quân uy với những binh sĩ thiếu tin cậy kia.

Kể từ thời điểm 1570 trở đi, binh sĩ nhà Minh chủ yếu thông qua Mộ binh chế.

Gia binh

Gia binh, có thể gọi là tư binh, là những binh sĩ chỉ phục vụ và tuân lệnh cấp trên trực tiếp của họ. Sự tồn tại của lực lượng thân binh thách thức quan điểm cơ bản của quân đội nhà Minh vì nó trái với tư tưởng quân đội phải trung thành tuyệt đối với hoàng đế và triều đình.

Cấu trúc lãnh đạo quân sự

Các vệ sở nằm ngoài khu vực kinh đô (Bắc Kinh, Nam Kinh, Trung Đô Phượng Dương) được đặt dưới sự quản lý của các Đô chỉ huy sứ ty tại các địa phương. Còn lực lượng tại kinh đô nằm dưới sự quản lý của Binh Bộ và Ngũ Quân Đô Đốc Phủ, theo đó Binh Bộ nắm quyền điều binh, Ngũ Quân Đô Đốc Phủ nắm quyền thống binh, điều này phản ánh chính sách kiềm chế thế lực quân sự của triều đình nhà Minh. Chính sách kiềm chế này được tiếp thu từ những chính sách kiềm chế trước đây dưới thời Tống.

Các võ quan được tuyển chọn thông qua các kỳ Võ Cử do triều đình tổ chức, trong đó phần kỹ năng võ học nhấn mạnh vào các khả năng cưỡi ngựa bắn cung, tuy nhiên điều này không đủ để có những võ quan chất lượng. Dù vậy, những kỳ võ cử cũng đã tạo nên không ít tướng lĩnh tài năng như Thích Kế Quang, Du Đại Du, Mã Sĩ Long, Ngô Tương, Ngô Tam Quế.

Vào hậu kỳ nhà Minh, chế độ Vệ sở thối nát đỉnh điểm, quân đội dựa vào các thế lực thế tập thay vì được luân chuyển theo chế độ của triều đình, và Ngũ Quân Đô Đốc Phủ đã không thể kiểm soát được quân đội tại các tỉnh nữa. Các Tổng đốc quân vụ, được thiết lập từ thời Thành Hóa (1465 - 1487), được bổ nhiệm đến các tỉnh nhằm quản lý vấn đề tài chính và quân sự tại các địa phương, dần trở thành những thế lực tự trị.

Các phiên vương được hoàng đế cử đến lãnh địa được phong có quyền thống lĩnh quân đội tại đó. Tại các lãnh địa phiên vương có quyền mộ binh và xây dựng lực lượng thân binh cho riêng mình (đến năm 1395 quyền lực này đã bị hạn chế). Hệ thống phân phong nhằm mục đích tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội này từ lâu đã không được các triều đại trước đó sử dụng. Các phiên vương cũng tham gia vào các chiến dịch quân sự mà triều đình tổ chức. Yên vương Chu Lệ trấn giữ Bắc Bình đã tạo ấn tượng tốt với Hồng Vũ đế trong các chiến dịch Bắc phạt, thậm chí được phép giữ riêng 1 vạn tù binh Mông Cổ sau khi kết thúc chiến dịch, mà trớ trêu thay những hàng quân Mông Cổ này lại đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch đoạt ngôi báu của ông. Trong một số trường hợp thì các phiên vương cũng được bổ nhiệm vào các chức vụ đang chưa có người thay thế, ví dụ như Tần vương Chu Sảng được cử đi thiết lập các đồn điền và cứ điểm bên ngoài Trường Thành. Các phiên vương luôn được phép mang theo thân binh, trong khi các quan lại được triều đình cử xuống chỉ được sử dụng lực lượng tại chỗ, mà các phiên vương chỉ có quyền trong những trường hợp khẩn cấp do Hoàng đế tuyên bố. Chuỗi lệnh kép này nhằm ngăn chặn một cuộc đảo chính ở thủ đô. Lực lượng đồn trú chỉ có thể được triển khai khi có lệnh mang cả con dấu của Hoàng đế và phiên vương. Các đội quân của Đô chỉ huy sứ ty sau đó được sử dụng để giám sát lực lượng quân đội của các phiên vương. Nhiều phiên vương đã tích lũy lực lượng quân đội riêng biệt và sử dụng quân đội của triều đình mà không cần ủy quyền trong các chiến dịch quân sự. Quyền lực của các phiên vương dần suy giảm bắt đầu từ chính sách triệt phiên của Kiến Văn đế, sau đó được Vĩnh Lạc đế kế tục ngay sau khi chính ông ta lật đổ cháu của mình. Trong những năm Vĩnh Lạc (1402 - 1424), các phiên vương hoặc bị phế bỏ, hoặc bị dời vào trong nội địa; cho đến hậu kỳ nhà Minh đã không còn nhiều phiên vương nắm thực quyền. Quyền thống lĩnh quân sự được Vĩnh Lạc đế giao cho tầng lớp công khanh huân thích, bao gồm những người đi lên từ quân đội và trở thành tầng lớp quý tộc thế tập. Tuy nhiên, quyền thống lĩnh của họ chỉ được thực thi khi triều đình tiến hành các chiến dịch chinh phạt và bình loạn, sau khi kết thúc phải giao trả binh quyền nhằm ngăn chặn việc hình thành quyền lực cá nhân đe dọa đến hoàng đế.

Cấm quân: Tam Đại Doanh và Đoàn Doanh

Tam Đại Doanh

Tam Thiên doanh

Tam Thiên Doanh (phồn thể: 三千營; giản thể: 三千营; bính âm: Sanqianying) được tổ chức từ 3000 kỵ binh người Mông Cổ (trên thực tế quân số nhiều hơn thế), phân làm năm ty, phụ trách giữ hoàng kỳ, xe cộ, binh khí, đồ ngự dụng. Từ thời Gia Tĩnh đổi tên là Thần Xu Doanh (神樞營). Là lực lượng kỵ binh nòng cốt và cơ động nhất của cấm quân.

Ngũ Quân doanh

Ngũ Quân Doanh (phồn thể: 五軍營; giản thể: 五軍营; bính âm: Wujunying) là một trong ba lực lượng thuộc cấm quân nhà Minh.

Từ thời Minh Thái Tổ, triều đình nhà Minh thiết lập Đại đô đốc phủ tiết chế quân đội toàn quốc, trong ngoài kinh thành bố trí hai sân lớn nhỏ, phân thành 48 vệ, đến khi Minh Thành tổ dời đô ra bắc thì số lượng tăng lên 72 vệ. Năm Vĩnh Lạc thứ 8 (1410), các lực lượng thủy, bộ, kỵ được phân thành Trung quân, Tả-Hữu dịch quân, Tả-Hữu tiêu quân, gọi là Ngũ quân. Trừ vệ sở kinh sư, hàng năm 16 vạn quân từ Trung Đô lưu thủ ty và các Đô ty Sơn Đông, Hà Nam, Đại Ninh luân phiên đến kinh sư thao luyện, gọi là ban quân. Ngũ Quân Doanh thiết lập 1 đề đốc nội quan, 2 võ quan, 2 chưởng hiệu; mỗi đại doanh gồm 1 doanh quan, 2 bả tổng. Các quân doanh thiết lập 1 doanh quan, 1 bả tổng. Bình thường thao luyện trận hình, chiến thuật. Khi hoàng đế thân chinh, năm quân đóng ở bên ngoài, là lực lượng tác chiến chủ lực.

Thần Cơ doanh

Bài chi tiết: Thần Cơ Doanh

Thần Cơ Doanh (phồn thể: 神機營; giản thể: 神机营; bính âm: Shenjiying) Phụ trách huấn luyện và sử dụng vũ khí nóng tác chiến. Được thành lập dưới thời Vĩnh Lạc (1402 - 1424), sau chiến dịch quân sự tại Việt Nam, do số lượng vũ khí nóng tăng cùng yêu cầu huấn luyện tác chiến mà Minh Thành Tổ quyết định thành lập lực lượng quân sự sử dụng hỏa khí và tác chiến hỏa khí, gọi là Thần Cơ Doanh. Ban đầu được trang bị các loại pháo và súng tay sơ khai, đến thời Gia Tĩnh (1522 - 1566) thì được trang bị thêm nhiều pháo và súng cầm tay tiên tiến từ phương Tây và được sản xuất hàng loạt. Những vũ khí nóng được ghi chép và biên tập trong ba công trình quân sự nổi tiếng: Hỏa Long Kinh (火龙经), Kỷ hiệu tân thư (紀效新書) và Võ bị chí (武备志). Thần Cơ Doanh được xem là đội quân sử dụng vũ khí nóng chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới, đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập ưu thế quân sự tuyệt đối của nhà Minh thời kỳ đầu nói riêng, và quân sự Trung Hoa nói chung, cũng như duy trì sự ổn định của nhà Minh những năm trung kỳ và hậu kỳ.

Đoàn Doanh

Sau sự biến Thổ Mộc Bảo, nhà Minh tái cơ cấu lực lượng cấm quân, theo đó dưới thời Cảnh Thái (1450-1456), Minh Đại Tông chấp thuận đề xuất của Binh bộ thượng thư Vu Khiêm tiến hành tuyển mộ 10 vạn quân biên chế vào 10 doanh trại kinh sư, gọi là Đoàn Doanh. Đến năm Thiên Thuận thứ 8 (1464), ngay sau khi Minh Anh Tông mất, Minh Hiến Tông kế vị tiến hành mở rộng số lượng và quy mô các đoàn doanh, theo đó số lượng đoàn doanh được tăng lên thành 12, gồm:

Tứ Vũ Doanh (Phấn Vũ, Diệu Vũ, Luyện Vũ, Hiển Vũ)

Tứ Dũng Doanh ( Cảm Vũ, Quả Vũ, Hiệu Vũ, Cổ Vũ)

Tứ Uy Doanh: (Lập Uy, Thân Uy, Dương Uy, Chấn Uy)

Mỗi doanh thiết lập tam thiên doanh, ngũ quân doanh và thần cơ doanh với quy mô nhỏ hơn. Doanh quân được chọn từ công khanh huân thích, thực tế do các phó quan đề đốc phụ trách, nội thần làm giám quân. Đến thời Gia Tĩnh, triều đình nhà Minh cải tổ cấm quân, xóa bỏ chế độ đoàn doanh, thiết lập lại thể chế tam đại doanh.

Nguồn gốc xuất thân của binh sĩ

Người Mông Cổ

Hồng Vũ đế đã tiếp nhận các dân tộc du mục hoặc bán du mục ở miền Bắc Trung Hoa như Mông Cổ, Nữ Chân gia nhập quân ngũ. Hầu hết người Mông Cổ trong quân Minh đóng quân ở khu vực biên cương miền Bắc, tuy nhiên họ cũng được cử xuống chiến đấu ở phía Nam trong các chiến dịch bình loạn ở Quảng Tây.

Người Mông Cổ lập được quân công có thể nhận thưởng từ triều đình như ruộng đất và thăng quân hàm, tuy vậy họ vẫn chịu sự phân biệt đối xử vì không phải là người Hán. Tướng lĩnh và binh lính Mông Cổ chưa bao giờ được trao quyền thống lĩnh hoặc tác chiến độc lập mà phải chịu sự giám sát của những tướng lĩnh người Hán, tuy nhiên do vai trò giám sát chỉ là trên danh nghĩa nên phần lớn binh sĩ Mông Cổ hành xử như là lính đánh thuê hoặc là gia binh của các tướng lĩnh. Mối quan hệ này kéo dài xuyên suốt triều Minh, và thậm chí ở giai đoạn hậu kỳ, các tướng lĩnh người Hán luôn có những người Mông Cổ trong thân binh của họ.

Lang Binh

nhỏ|300x300px|Mô tả lực lượng Lang binh. Nhà Minh trong thời gian chống Oa khấu đã huy động cả lực lượng binh sĩ từ những dân tộc thiểu số, điển hình như Lang binh của người Tráng ở Quảng Tây làm lực lượng xung kích.

Bắc quân

Danh tướng Thích Kế Quang miêu tả những binh sĩ Bắc quân một cách khá tiêu cực là "ngu ngốc" và "thiếu kiên nhẫn". Hầu hết Bắc quân vẫn sử dụng các loại hỏa khí kiểu cũ như hỏa thương thay vì tiếp nhận hỏa khí kiểu mới như súng hỏa mai.

Những binh sĩ Bắc quân được chiêu mô từ Liêu Đông, và người Liêu Đông nói chung, bị xem là thiếu tin cậy, phóng túng và không tốt hơn du côn là bao. Hệ thống quân sự và chỉ huy quân sự tại Liêu Đông theo hình thức thế tập, với mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa binh sĩ với chỉ huy. Vì vậy khi bất đồng với triều đình trung ương thì các thế lực này dễ dàng đào ngũ gia nhập kẻ địch, điều này giải thích cho nguyên nhân mà Liêu Đông dễ dàng rơi vào tay Hậu Kim, khi mà các thế lực quân sự Liêu Đông quyết định ngả về các bộ lạc Nữ Chân thay vì trung thành với triều đình.

Vũ khí và trang bị

nhỏ|Binh lính nhà Nam Minh Thương và mâu là những vũ khí phổ biến nhất và binh sĩ được huấn luyện toàn diện trong chiến đấu tay đôi hoặc đội hình. Công tác huấn luyện chiến đấu bằng mâu và thương thường kéo dài hơn 3 tháng.

Cũng như trường thương và mâu, đao, bao gồm đoản đao và trường đao, cũng là loại vũ khí được sử dụng vô cùng phổ biến trong chiến đấu của quân đội nhà Minh. Kiếm ít được sử dụng trong thực chiến mà chủ yếu nghiêng về trình diễn, thi đấu hoặc với vai trò lễ nghi.

Đao là một thể loại Trung Quốc để chỉ những gươm cong, một lưỡi. Nó là vũ khí chiến đấu gần cơ bản của triều đại nhà Minh. Kiếm thì dài hơn là thể loại miêu tả gươm hai lưỡi thẳng. Nó trải qua một sự hồi sinh trong triều đại nhà Nguyên nhưng lại không được ưa chuộng trong thời nhà Minh. Kiếm vẫn được sử dụng bởi một số ít chuyên gia vũ khí nhưng mặt khác được biết đến với những phẩm chất như một dấu hiệu của sự tinh chỉnh học thuật.

"Trảm Mã Đao" được mô tả trong sử liệu nhà Minh là trường đao cán dài 128 cm gắn với lưỡi đao dài 96 cm, đôi khi nó cũng được mô tả như một thanh đoản đao về. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng cơ bản là một vũ khí glaive. Người ta suy đoán rằng thống đốc Formosa người Thụy Điển Frederick Coyett đã đề cập về loại binh khí này khi mô tả binh lính của Trịnh Thành Công: "Họ sử dụng thanh gươm đáng sợ được gắn vào cán dài bằng nửa người".

Danh tướng Thích Kế Quang đã triển khai đội hình tiểu kỳ "Uyên Ương trận", bao gồm bốn trường thương thủ, hai thuẫn bài thủ, hai lang tiễn thủ, đội trưởng và phụ trách hậu cần. Đội hình này có điểm tương đồng với đội hình ở châu Âu, nơi mà các tay súng được các thương thủ bảo vệ xung quanh. Ngoài ra phương thức bắn tập trung theo hàng cũng được áp dụng.

Cung và nỏ vẫn được xem là những vũ khí quan trọng bất chấp sự phát triển của hỏa khí cũng như các chiến thuật, kỹ năng sử dụng nó.

Tập tin:Ming Iron Dao.jpg|Trảm mã đao Tập tin:山文甲.jpg|Cấm quân sử dụng đao và kiếm Tập tin:Ming jian sword.jpg|Hình vẽ một binh sĩ thuộc cấm quân vác theo kiếm

Giáp trụ

thế=|nhỏ|Hình vẽ [[Quan Vũ mặc Sơn Văn giáp]]

Dưới triều đại nhà Minh, phần lớn binh sĩ không mặc áo giáp, mà chủ yếu dành cho các chỉ huy và một phần ít binh sĩ. Giáp cho ngựa cũng rất ít được sử dụng.

Giáp nhẹ (Brigandine Armour) thời nhà Minh được bộ binh sử dụng rộng rãi dưới dạng những tấm giáp nhỏ bọc trong các lớp vải và được cố định bằng đinh tán.

Giáp tấm (Plate Armour) được đề cập trong Võ bị yếu lược (1638). Mặc dù giáp tấm rất ít phổ biến, loại giáp này được sử dụng trong Chiến tranh Nhâm Thìn. Quân Nhật Bản tại Triều Tiên đã ghi nhận những binh sĩ nhà Minh trang bị giáp nặng đã xuyên qua làn mưa đạn của Nhật để phá tan đội hình đối phương.

Mặc dù giáp trụ vẫn được sử dụng, vai trò của nó dần bị hạn chế do sự tiến bộ không ngừng của vũ khí nóng. Danh tướng Tiêu Ngọc thừa nhận rằng hỏa khí "bắn như rồng bay, xuyên thủng tầng tầng lớp lớp giáp". Binh sĩ dù cho trang bị giáp trụ đầy đủ vẫn bị đánh bại chỉ bằng một khẩu súng. Dù vậy, vẫn có những ghi nhận về những cố gắng của nhà Minh trong chế tác giáp trụ chống đạn. Theo như ghi nhận của người Nhật, trong trận chiến Tắc Sơn (Jiksan), quân Minh được trang bị giáp và lá chắn đã chặn được không ít loạt súng của quân Nhật, và phòng ngự thành công trước khi viện binh kéo buộc quân Nhật rút lui. Frederick Coyett trong cuộc chiến ở Đài Loan đã mô tả những giáp trụ của nhà Minh có khả năng bảo vệ tốt chống lại súng hỏa mai. Tài liệu của người Anh vào đầu thế kỷ 19 cũng đề cập đến những lá chăn được đan bằng cây mây của Trung Hoa được coi là "gần như là bằng chứng thuyết phục cho việc bảo vệ người mặc chống lại súng hỏa mai", tuy vậy một báo cáo khác vào cuối thế kỷ 19 nói rằng nó không bảo vệ người mặc trong suốt cuộc tiến công vào pháo đài của lực lượng Hồi Giáo, nơi mà họ toàn bộ đều tử trận dưới làn mưa đạn.

Những binh sĩ sử dụng tên lửa thường mặc giáp nặng để tăng cường bảo vệ, do đó họ có thể bắn ở cự ly gần.

Tập tin:Ming Dynasty mail armor.jpg|"Cương ti liên hoàn giáp", mô tả giáp lưới thời nhà Minh. Tập tin:Koxinga's soldier.jpg|Trang bị giáp trụ của tinh binh dưới trướng Trịnh Thành Công, "Thiết nhân" |Trường thương binh được trang bị giáp nhẹ Tập tin:Ming helmet, breast plate, and mask.jpg|Mũ sắt, giáp trụ và mặt nạ, mô tả trong Võ bị yếu lược Tập tin:Ming arm guards, thigh armor, and back plate.jpg|Giáp tay, giáp đùi và giáp lưng, mô tả trong Võ bị yếu lược Tập tin:Ming soldier.jpg|Tượng lính trang bị lá chắn

Các đội hình chiến thuật

Cấp tiểu kỳ

Tập tin:Mandarin Duck Formation.jpg|Đội hình "Uyên Ương trận" trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và tư thế chiến đấu. Tập tin:New mandarin duck formation.jpg|Đội hình "_Uyên Ương trận_" được thiết kế dành cho biên quân phía Bắc. Tập tin:First step squad.png|"_Bộ binh đội_" được trang bị giáp trụ. Tập tin:Killer squad.jpg|"_Sát thủ đội_ " (殺手隊) của Thích Kế Quang. Một trong những biến thể cấu trúc của Uyên Ương trận. Tập tin:Qi Jiguang's firearm squad.jpg|"_Hỏa khí độ_i" (火器隊) ### Đội hình doanh trại Tập tin:JXXS Fortified camp.jpg|Phương trận Tập tin:Ming dynasty wagon fort.jpg|Đội hình phòng ngự sử dụng xa trận

Một số tướng lĩnh quân sự nổi tiếng

  • Hồng Vũ đế (1328 - 1398)
  • Vĩnh Lạc đế (1360 - 1424)
  • Từ Đạt (1332 - 1385)
  • Thang Hòa (1326 - 1392)
  • Mộc Anh (1345 - 1392)
  • Lam Ngọc (? - 1393)
  • Thường Ngộ Xuân (1330 - 1370)
  • Vương Thủ Nhân (1472 - 1528)
  • Thích Kế Quang (1528 - 1588)
  • Du Đại Du (1503 - 1580)
  • Lý Thành Lương (1526 - 1615)
  • Viên Sùng Hoán (1584 - 1630)
  • Tần Lương Ngọc (1574 - 1648)
  • Mao Văn Long (1576 - 1629)
  • Trịnh Thành Công (1624 - 1662)
  • Tiêu Ngọc
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
nhỏ|Phân bố quân lực thời Hồng Đức (1471) **Quân đội nhà Lê Sơ** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết
**Quân đội nhà Mạc** phản ánh việc tổ chức quân đội và chính sách quân sự của nhà Mạc trong 65 năm tồn tại trong lịch sử Việt Nam. ## Tổ chức Do tình hình
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Quân đội Macedonia nhà Antigonos ** là quân đội của Macedonia trong kỳ khi nó được cai trị bởi triều đại Antigonos từ năm 276 TCN đến 168 TCN. Nó được xem là một trong
**Tổng cục Tình báo Quốc phòng**, gọi tắt là **Tổng cục Tình báo** hoặc** Tổng cục II**, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân
**Phạm Thông** (chữ Hán: 范鏓, ? – ?) tự **Bình Phủ**, người Thẩm Dương vệ , quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Tổ tiên của Thông
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
**Trần Diễn** (chữ Hán: 陈演, ? – 1644), tự **Phát Thánh**, hiệu **Tán Hoàng**, người Tỉnh Nghiên , một trong những Nội các thủ phụ thời Sùng Trinh cuối đời Minh. ## Tiểu sử Ông
right|thumb|300x300px|Văn Uyên các trong Cố Cung, Bắc Kinh. Thời Minh Nội các đóng tại đây. Văn Uyên các nằm sau lưng Văn Hoa Điện, phía Đông Ngọ Môn. **Nội các nhà Minh** do Minh Thành
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱纨, 1494 – 1549), tự **Tử Thuần**, hiệu **Thu Nhai**, người huyện Trường Châu, phủ Tô Châu , quan viên nhà Minh, danh thần kháng Oa trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Thông** (tiếng Trung: 王通, ? - 1452) là một tướng nhà Minh từng là Tổng binh quân Minh tại Đại Việt. ## Sự nghiệp ban đầu Vương Thông người Hàm Ninh, tỉnh Hồ Bắc,
Tranh khảm mô tả [[Trận Issus]] **Quân đội Macedonia** hay **Quân đội của Macedon** ở đây được hiểu là đội quân của Vương quốc Macedon cổ đại. Nó được coi là một trong những lực
**Lưu Tư** (chữ Hán: 刘孜, ? – 1468), tự **Hiển Tư**, người Vạn An, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Năm Chánh Thống thứ 10 (1445) thời Minh Anh Tông, Tư đỗ
**Giao Chỉ đẳng xứ Thừa tuyên Bố chính sứ ty** (chữ Hán: 交趾等處承宣布政使司), gọi tắt là **Giao Chỉ Bố chính sứ** (交趾布政司), là cơ quan hành chính cấp tỉnh mà nhà Minh thiết lập tại
**Huyết án Ngọ môn nhà Minh** () là một sự kiện xảy ra vào ngày 12 tháng 9 năm 1449 (ngày 26 tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 dưới triều Minh Anh Tông) tại
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1470), tên tự là **Cát Hanh**, người Quang Trạch, Phúc Kiến, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Chánh Thống Thái từ nhỏ ở
nhỏ|Mũ _Dực Thiện Quan_ đan từ sợi vàng của [[Minh Thần Tông|Vạn Lịch Đế, mô phỏng từ bản gốc khai quật từ Định lăng. Theo truyền thống nhà Minh, _Dực Thiện Quan_ màu vàng chỉ
**Quân đội Đồng minh Dân chủ Dân tộc Miến Điện** (_Myanmar National Democratic Alliance Army-MNDAA_) là một tổ chức vũ trang sắc tộc hoạt động chủ yếu tại các bang Shan và Kachin, miền bắc
**Cao Minh** (chữ Hán: 高明, ? – ?), tự **Thượng Đạt**, người huyện Quý Khê, phủ Quảng Tín, bố chánh sứ tư Giang Tây , quan viên nhà Minh. ## Thời Cảnh Thái Minh từ
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Uông Tuấn** (chữ Hán: 汪俊, ? - ?) tự **Úc Chi**, người huyện Dặc Dương, phủ Quảng Tín, Thừa Tuyên Bố chánh sứ tư Giang Tây , quan viên nhà Minh. Ông là thành viên
**Vương Cương** (chữ Hán: 王纲, ? - ?), tự Tính Thường, người Dư Diêu, Chiết Giang, quan viên nhà Minh. Ông là tổ 7 đời của triết gia Vương Dương Minh, được sử cũ xếp
**Lý Đường** (chữ Hán: 李棠, ? – ?), tự **Tông Giai**, người Tấn Vân, Chiết Giang, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Đường đỗ tiến sĩ năm Tuyên Đức
**Vương Vũ** (chữ Hán: 王宇, ? – 1463), tự **Trọng Hoành**, người Tường Phù, Hà Nam , quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Từ khi còn bé, Vũ hằng ngày chép hơn vạn câu,
**Trương Ký** (chữ Hán: 张骥, ? – 1449), tự **Trọng Đức**, người An Hóa, Hồ Nam, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp Thời Vĩnh Lạc, Ký đỗ kỳ thi Hương, được gia nhập Quốc
**Lưu Tuấn** (chữ Hán: 劉儁 hay 劉俊 , ? – 1408) hay **Lưu Tuyển** (劉雋) , tự Tử Sĩ, người huyện Giang Lăng , quan viên nhà Minh, tử trận khi trấn áp nhà Hậu
**Vương Nguyên** (chữ Hán: 王源 hay 原 , ? - ?), tự **Khải Trạch**, người Long Nham, Phúc Kiến, quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử cũ xếp vào nhóm
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**Vương Tấn** (chữ Hán: 王琎, ? - ?) tự Khí Chi, người huyện Nhật Chiếu, phủ Thanh Châu, hành tỉnh Sơn Đông , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Tấn làu thông kinh sử,
**Lý Cương** (chữ Hán: 李纲, ? – 1478), tự Đình Trương, người Trường Thanh, Sơn Đông, quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Cương từ nhỏ theo cha vào Kinh đô, ngã xuống xe, bị
**Lưu Dục** (chữ Hán: 刘昱, ? – 1408), người huyện Vũ Thành , quan viên nhà Minh, tử trận khi trấn áp nhà Hậu Trần tại Việt Nam. ## Cuộc đời và sự nghiệp Dục
**_Quân đội nhà Thục Hán_** phản ánh việc tổ chức quân đội của nhà Quý Hán trong khoảng 42 năm tồn tại chính thức trong thời đại Tam quốc của lịch sử Trung Hoa. Hoạt
**Hoàng Việt** (chữ Hán: 黄钺, ? – 1402), tự **Thúc Dương**, người châu Thường Thục, lộ Bình Giang, hành tỉnh Giang Nam , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Việt từ nhỏ hiếu học.
**Chu Tấn** (chữ Hán: 周缙, ? - ?), tự Bá Thân, người huyện Vũ Xương, phủ Vũ Xương, hành tỉnh Hồ Quảng , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Tấn nhờ thân phận Cống
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo